“đáng điều tra” về danh mục cho vay của Wells vẫn thu về một khoản
doanh thu tiền mặt đáng kể, hơn 6%.
Nói theo cách khác, nếu Wells vẫn có khả năng thu từ những khoản thanh
toán lãi suất lớn như đã làm từ những khoản cho vay “không hiệu quả”
trên, thì kết quả sẽ không quá tồi tệ. Ít nhất cuối cùng ngân hàng cũng có
thể sẽ đòi lại được một phần mệnh giá ban đầu của những khoản cho vay
không hiệu quả. Trên thực tế, theo Berkowitz, Wells đã quá bảo thủ về việc
công bố khoản tiền cho vay 50% của những khoản vay nó đã cho vay, 50%
là tiền cho vay không hiệu quả vẫn được cập nhật trên những lãi suất theo
yêu cầu và những khoản thanh toán chính.
Hơn nữa, vì mục đích của báo cáo thu nhập và dành ra khoản dự trữ đối
ngược với bảng chi tiêu tài chính, Wells đã giả định điều xấu nhất cho danh
mục những khoản cho vay không hiệu quả. Bao gồm những dự phòng tổn
thất nặng nề của hai năm trước, dự phòng cho tổn thất trong tương lai
chiếm 5% của tổng danh mục cho vay của ngân hàng. Vì hiện tại chỉ có 6%
khoản cho vay của ngân hàng Wells bị coi là “không hiệu quả” (hãy nhớ
rằng, những khoản cho vay này không trả đủ lãi chứ không gây tổn thất),
trước khi khoản dự trữ 5% này có thể sẽ không đủ, hoặc là hầu hết những
khoản cho vay không hiệu quả sẽ trở thành vô giá trị, hoặc là những khoản
cho vay được xem là “hiệu quả” sẽ phải có một thay đổi đáng kể để còn tồi
tệ hơn. Nhận thấy sự bảo thủ cố hữu của hãng Wells, Berkowitz đã tiên
đoán rằng cả hai tình huống trên đều khó có khả năng xảy ra.
Có hai điểm khác nhau đưa đến quyết định của tôi: Điểm đầu tiên là so
sánh giữa Well Fargo và Bank America trong tờ báo OID. Theo đa số các
nhà đầu tư, cổ phiếu của Bank America là khoản đầu tư đảm bảo hơn trong
hai ngân hàng. Tuy nhiên, thực chất đó là vì ngân hàng Wells có nhiều hoạt
động công khai trên thị trường bất động sản ở California hơn (vì thế có
nhiều khoản cho vay không hiệu quả hơn), nên Wells đã dành ra khoản dự
phòng thiệt hại lớn hơn Bank America. Mặc dù có những khoản dự phòng