ngoài đường quá khuya. Tôi cố gắng cứu vãn vì đã nổi nóng bất ngờ. “Bao
giờ vé ‘Đêm thứ mười hai’ bắt đầu bán, con yêu? Vì mẹ với chú sẽ ngồi
hàng ghế đầu mà, phải không, Simon?”
“Chắc chắn rồi.”
Anh nói thật, và không phải chỉ vì đó là vở diễn của Katie. Simon yêu
thích nhạc cổ điển, nhà hát, những buổi nhạc jazz ít người biết đến ở những
nơi hẻo lánh. Anh sửng sốt vì tôi chưa từng xem “Cái bẫy chuột”; đã đưa
tôi đi xem và liên tục ngó sang mặt tôi để xem liệu tôi có thích thú không.
Cũng được, tôi nghĩ vậy, nhưng tôi vẫn thích “Mamma Mia” hơn.
“Con không chắc nữa. Con sẽ hỏi. Cảm ơn!” Câu cuối nó nhằm vào
Simon, tôi nghĩ rằng nó cảm nhận được chút gì đó của một tâm hồn đồng
điệu với anh. Đêm qua anh đã kiểm tra phần lời thoại cùng nó, hai người
còn tranh luận về cách thể hiện điệu bộ, cử chỉ nhân vật trong đoạn kịch
bản.
“Em có thấy con đã hình tượng hóa ‘sự che giấu’ và gọi nó là ‘sự tinh
quái’ như thế nào hay chưa?” Simon nói.
“Vâng! Và ngay cả khi kết thúc, cũng chả có tính cách nhân vật nào
thật sự rõ rệt”
Tôi bắt gặp ánh mắt của Justin; một khoảnh khắc ăn ý giữa hai chúng
tôi.
Lần đầu hẹn hò, Simon cũng nói với tôi rằng anh muốn trở thành một
nhà văn.
“Nhưng chẳng phải đó chính là những gì anh đang làm sao?” Tôi hơi
bối rối. Hồi ấy anh đã tự giới thiệu anh là nhà báo.
Anh lắc đầu quầy quậy. “Đó không thật sự là viết lách, đó chỉ là viết
nội dung mà thôi. Anh muốn viết những cuốn sách.”
“Thì anh viết đi!”
“Một ngày nào đó, anh sẽ viết,” anh nói với tôi. “Khi anh có thời
gian.”
Giáng sinh năm đó, tôi mua tặng anh một cuốn sổ tay Moleskine với
những trang giấy dày màu kem, bìa da nâu mềm. “Để anh viết sách,” tôi
nói một cách ngượng nghịu. Chúng tôi mới bên nhau được vài tuần và tôi