hằn, nhác thấy bố là lẩn. Đến năm đói nó chết sau cùng. Đã hấp hối mà
thấy bố khóc lại tưởng bố say, nó còn chắp tay van.
Mãi đến bây giờ, nghĩ đến gia đình, bác Cống lại thấy hai bàn tay khô
đen như cẳng hạc của thằng con út thò ra dưới mép chiếu, vái vái bố. Chao
ôi con!
Bác Cống buông khúc ngà voi gọt dở, quờ tay đấm đấm lưng, thở dài.
Thôi thì trước sau cũng phải về, phải đoàn kết với chánh Tam ít lâu
nữa. Đánh Tây xong là người cày có ruộng, nhất định thế. Làm cách nào có
ruộng thì sau này Đảng bảo cho, áng chừng cũng chả khó... "Tây không sợ,
sợ đếch gì thằng râu quặp thối tai! Hẵng cứ nhả ruộng nông dân ra, trả sáu
sào bảy thước tư đất màu của ông đây rồi đoàn kết thì đoàn! Nào, có muốn
ăn báng súng không thì bảo?". Những nghĩ suông cũng đủ mát ruột...
Đàn vượn hú dồn, chuyền ra xa. Đôi gấu ục ịch bỏ đi. Cống quờ tay
lấy tiểu liên, đứng dậy. Anh Chum xồng xộc chạy lên dốc núi. Khuôn mặt
sần sùi mụn cá lúc này cắt không ra giọt máu. Cả vết roi bầm chéo ngang
mặt cũng xanh nhợt.
- Nó bắn chết đội anh Lương rồi bác ơi!
Khẩu súng buột khỏi tay Cống.
- Thế nào?
- Nó phục ngang sông Nậm Phỉ, bắn chết sạch. Mỗi đồn khiêng về một
xác.
Chum òa khóc to. Cống nhặt khẩu súng, lau đất bám, lau mãi một chỗ
như máy. Chum ném trên bệ đá một gói lá chuối con: