hận cả những nụ cười ung dung trên mặt những kẻ đó. Y biết, nam chủ
nhân của y đã lao lực mà chết đi bởi những con người, những sự vụ trong
thành Trường An.
Nhưng y cũng yêu thành Trường An này. Khi chủ nhân vẫn còn,
hoàng hôn những ngày đông, đôi khi người bảo y chuẩn bị xe đi thẳng đến
Nhạc Du nguyên phía tây thành. Trên Nhạc Du nguyên khi ấy không có
người, chỉ có tà dương. Ánh tà dương chiếm trọn dải chân trời. Tiếp đến là
cỏ úa, thảm cỏ bát ngát mênh mông, thảm cỏ nối liền đất với trời. Chủ nhân
đứng giữa thảm cỏ úa. Mặt cỏ đang tắm gội cho ánh dư quang của vầng
dương. Thân thể người hiện ra gầy gò mà rắn rỏi, giống như những nét thư
pháp trên bia đá hao mòn ở Nhạc Du nguyên. Nhị Bỉnh hiểu rằng thời khắc
ấy, chủ nhân đang nghỉ ngơi, hòa lòng mình vào tà dương già cỗi, nghỉ ngơi
giữa hoang nguyên mênh mang.
Vị chủ nhân gầy gò rắn rỏi này của y họ Tiêu, là vị Ngự sử đanh thép
của Trường An, cũng là người Nhị Bỉnh thực sự kính phục cả đời. Mặc dầu
trong thành Trường An có rất nhiều người chẳng hề biết tới cái tên này.
Con ngựa kéo xe cho Nhị Bỉnh là thớt ngựa già, phần da lông dựa vào
càng xe đã có chỗ bợt cả ra, sức lực cũng bắt đầu suy nhược. Mười năm
trước khi Nhị Bỉnh bắt đầu đánh xe cho Tiêu gia đã hơi không vừa ý với
tướng mạo của nó. Hai năm sau y và chủ nhân quen thân hơn một chút, liền
đề nghị được đổi một thớt ngựa màu táo đỏ. Ngựa màu táo đỏ mới là loại
thông dụng nhất ở thành Trường An, dáng cao thân khỏe, bụng tròn hông
nở. Nhưng Tiêu ngự sử chỉ lắc đầu, ông nói con ngựa này ông cưỡi lúc lên
kinh dự thi, khi ấy nó hẵng còn là một con ngựa non. Ông ngâm cho Nhị
Bỉnh nghe một bài thơ, bảo rằng đó là thơ Đỗ Phủ:
Cưỡi mày cũng đã lâu, ải xa tuyết ngập sâu.
Dặm trường già gắng sức, cuối đời bệnh yếu đau.