thủ nghiêng người trên mạn thuyền để trông chừng những mỏm đá lướt qua,
tất cả đều nín thở. Một khi đã vào trong vịnh, mặt nước phẳng lặng vô cùng,
và thuỷ thủ đoàn phải chèo nốt quãng đường còn lại. Địa hình này thật khó
để lèo lái qua; tôi không ghen tị chút nào với hành trình trở ra của thuyền
trưởng.
“Ta tới nơi rồi,” ông ta bảo tôi, giọng dằn dỗi. Tôi đã bước sẵn về phía
cầu tàu rồi.
Bề mặt vách đá dựng thẳng đứng trước mặt tôi. Có bậc thang đi lên được
đẽo vào trong đá, uốn vòng lên cung điện, và tôi bước lên đó. Trên đỉnh là
đống cây bụi với dê, và cung điện, khiêm tốn, tẻ nhạt, được dựng lên nửa
bằng đá và nửa bằng gỗ. Nếu đó không phải là toà nhà duy nhất trong tầm
mắt, thì tôi đã không nhận ra rằng đó là nơi ở của nhà vua. Tôi đi tới cửa và
bước vào.
Sảnh đường rộng và tối, không khí ô uế đầy mùi đồ ăn cũ. Ở phía cuối có
hai cái ngai trống. Vài lính gác ngồi không ở bàn, chơi xúc xắc. Họ ngẩng
lên.
“Gì?” Một người hỏi tôi.
“Ta tới gặp vua Lycomedes,” tôi nói. Tôi hếch cằm lên, để họ thấy được
tôi là một nhân vật cao quý. Tôi đã mặc chiếc tunic đẹp nhất tôi tìm được -
một trong những cái áo của Achilles.
“Tao đi cho,” một người khác nói với đồng đội của mình. Anh ta thả cặp
xúc xắc lộc cộc lên bàn và chán nản ra khỏi sảnh. Peleus sẽ không bao giờ
cho phép thái độ bất mãn như vậy, ông đối xử rất tốt với người của mình và
trông chờ sự đền đáp tương tự từ phía họ. Mọi thứ trong căn phòng này
trông đều xơ xác và xám xịt.
Tên lính trở lại. “Tới đây,” anh ta nói. Tôi đi theo anh ta, và nhịp tim tôi
tăng lên. Tôi đã nghĩ rất lâu về những gì mình sẽ nói. Tôi đã sẵn sàng rồi.
“Trong đây.” Anh ta ra hiệu về một cánh cửa mở, và quay lưng trở lại với
xúc xắc của mình.
Tôi bước qua ngưỡng cửa. Trong phòng, ngồi bên dải khói mong manh từ
đống lửa tàn, là một thiếu nữ.