mẹ hỏi mình có đi với bà không.”
Tôi nghe đến mê mẩn. “Đi đâu cơ?”
“Tới những hang động dưới đáy biển.” Nơi các vị thần biển sống, sâu đến
nỗi mặt trời không rọi tới.
“Cậu sẽ đi chứ?”
Cậu lắc đầu. “Cha bảo mình không nên đi. Cha bảo không phàm nhân nào
thấy họ mà trở lại y nguyên.”
Khi cậu quay đi, tôi làm một dấu hiệu trừ tà dân gian. Cầu thánh thần đẩy
lui. Tôi thấy hơi rợn người khi nghe cậu nói về chuyện đó bình thản đến vậy.
Thánh thần và phàm nhân chẳng bao giờ vui vẻ chung chạ trong thần thoại
của chúng tôi. Nhưng bà là mẹ cậu, tôi tự trấn định, và bản thân cậu cũng là
á thần.
Dần dà những lần thăm hỏi mẹ cũng chỉ là một nét kì lạ khác về cậu mà
tôi thành ra quen thuộc, giống như nét diệu kì nơi bàn chân cậu hay sự linh
hoạt phi nhân loại của những ngón tay cậu. Khi tôi nghe thấy cậu trèo vào từ
cửa sổ lúc bình minh, tôi sẽ lẩm bẩm từ giường mình, “Bà ấy khoẻ chứ?”
Và cậu sẽ trả lời. “Ừ, mẹ vẫn khoẻ.” Và cậu có thể nói thêm: “Hôm nay
nhiều cá lắm” hay “Nước trong vịnh ấm lắm”. Và rồi chúng tôi lại thiếp đi.
MỘT BUỔI SÁNG vào mùa xuân thứ hai của tôi ở đây, cậu trở về từ
cuộc hẹn với mẹ muộn hơn thường lệ; mặt trời gần như đã ló dạng khỏi mặt
biển và tiếng mõ dê đã leng keng trên những triền đồi.
“Bà ấy khoẻ chứ?”
“Mẹ vẫn khoẻ. Mẹ muốn gặp cậu.”
Tôi cảm thấy nỗi sợ hãi dâng trào, nhưng cố kìm nén. “Cậu nghĩ mình có
nên đi không?” Tôi không tưởng tượng nổi bà muốn làm gì với tôi. Tôi biết
bà có tiếng là ghét phàm nhân.
Cậu không nhìn vào mắt tôi; tay cậu mân mê một hòn đá nhặt được.
“Chẳng mất gì cả. Đêm mai gặp, mẹ nói vậy.” Tôi hiểu ra rằng đó là một
mệnh lệnh. Thần linh chẳng bao giờ thỉnh cầu. Tôi biết cậu đủ rõ để nhìn ra
rằng cậu đang xấu hổ. Cậu chẳng bao giờ cứng người như vậy khi ở cạnh
tôi.
“Ngày mai ư?”