Làng tôi chìm lặng dưới chân những ngọn núi lờ mờ tối sẫm giữa các
tầng mây mù bay là là sát đất. Những làn khói trắng nhỏ toả ra từ các ống
khói ngoằn ngoèo. Không một ai ló ra khỏi nhà. Hơn nữa lũ chó sói đói
bỗng trở nên liều lĩnh. Ban ngày chúng trắng trợn hoành hành trên các ngả
đường, tối đến chúng sục sạo ở ngay cạnh làng và suốt đêm cho tới sáng cứ
tru lên đói khát, điên dại.
Không hiểu sao tôi cứ lo thay cho thầy chúng tôi: không có áo lông, chỉ
mặc phong phanh chiếc áo choàng bộ đội ấy thì thầy làm sao chịu được cơn
rét này? Và đến ngày Duishen phải về, tâm can tôi cứ như lửa đốt: lòng tôi
đã cảm thấy có điều gì chẳng lành. Chốc chốc tôi lại chạy ra sân, nhìn ra
cánh thảo nguyên vắng vẻ phủ đầy tuyết trắng xem thầy giáo có xuất hiện
trên đường cái không. Nhưng vẫn không có lấy một bóng người.
“Thầy ơi, thầy ở đâu? Em van thầy, thầy đừng về khuya đấy, về nhanh
lên thầy! Chúng em đang đợi thầy đây, thầy có nghe thấy không? Chúng em
đang mong ngóng thầy về”.
Nhưng thảo nguyên không hề đáp lại tiếng gọi thầm lặng của tôi và
không hiểu sao tôi oà lên khóc nức nở.
Thím tôi đã phải bực mình vì tôi cứ ra vào mãi. Rồi thím giơ ngón tay
lên đe tôi:
— Hôm nay mày có để cho cái cửa được yên không nào? Ngồi ngay
vào một chỗ, cầm lấy ống sợi mà quay. Mày làm cho mấy đứa trẻ chết cóng
lên rồi đấy. Có giỏi cứ nhảy ra ngoài một lần nữa tao xem nào! – Và thím
không cho tôi ra khỏi nhà nữa.
Trời đã sẩm tối, thế là tôi không được biết thầy đã về hay chưa. Vì thế
tôi không thể nào ngồi yên được. Khi thì tôi tự an ủi rằng Duishen chắc đã
về đến làng rồi – vì chưa lần nào thầy trở về lỡ hẹn cả. Khi thì tôi lại chợt
nghĩ hay thầy bị ốm nên phải đi chậm, hễ trời nổi cơn bão tuyết lên là đêm
hôm thế này chẳng mấy chốc thầy sẽ bị lạc trên thảo nguyên. Tôi không sao
làm việc được nữa, không sao điều khiển nổi hai cánh tay, sợi cứ đứt luôn,
làm cho thím tôi điên tiết lên.