người được như ông ta.
Trong lúc nói thế. Nước mắt chị thợ giặt chảy ròng ròng trên má.
Chị lại nói tiếp:
- Chóng mặt quá! Hay là vì tôi đã uống hết cả chai rượu? Chắc hẳn tôi đã
uống quá mức nên không chịu được! Tôi thấy rất khó chịu.
Chị tựa người vào một tấm ván.
Martha bảo:
- Trời ơi! Chị bị cảm thật rồi. Cố gắng một tí cho nó qua đi nào! Nhưng
chẳng được đâu, tôi thấy chị cảm nặng đấy. Tốt nhất là tôi dẫn chị về nhà.
- Còn đống quần áo kia?
- Cứ để đấy tôi giặt cho. Lại đây, đưa tay đây. Để cháu ở lại trông quần
áo. Tôi sẽ quay lại và giặt nốt chỗ dở cho, cũng chẳng còn mấy.
Chị thợ giặt đáng thương lảo đảo bước đi. Chị nói:
- Tôi dầm nước lạnh lâu quá! Từ sáng tôi chưa được ăn uống gì cả. Tôi bị
cảm, lạy chúa Jesus! Hãy cứu giúp con được về nhà! Khổ thay cho con tôi!
Chị khóc sướt mướt. Khi ở lại bờ sống trông quần áo một mình, thằng bé
cũng khóc. Hai người đàn bà bước đi chầm chậm. Chị thợ giặt lảo đảo lê
qua ngõ hẻm. Đến trước cửa nhà thị trưởng, chị kiệt sức ngã lăn ra bờ hè.
Người qua đường xúm quanh chị, chị què Martha chạy vội về nhà bạn gọi
người đến giúp.
Thị trưởng và quan khách ra cửa sổ đứng xem. Ông chủ tiệc nói:
- À, mụ thợ giặt đấy mà, có lẽ mụ ấy lại uống rượu nhiều quá rồi. Mụ ấy
là đồ hư hỏng. Đáng tiếc cho thằng con trai mụ, thằng bé ngoan quá, tôi yêu
nó lắm… Nhưng mẹ nó lại là đồ khốn kiếp.
Người đàn bà đáng thương hồi tỉnh lại. Người ta đưa chị về gian buồng
bé nhỏ tồi tàn của chị đặt chị nằm vào giường. Martha pha cho chị một cốc
bia nóng với bơ và đường. Theo chị, đó là món thuốc tốt nhất. Sau đó, chị
quay ra sông giặt qua loa chỗ quần áo, hay đúng hơn, là chỉ vớt dưới nước
lên rồi cho vào sọt. Chị có ý định tốt, nhưng chỉ hiềm nỗi yếu sức.