Khi tàu qua sông đào, những khẩu đại bác bắn đạn giả và chàng lính cũng
bắn loạn xạ lên trời bằng khẩu súng gỗ của chàng. Bằng cách đó người thủy
thủ già chào mừng những người bạn có phước của ông - những thuyền
trưởng chưa về hưu.
Vài năm sau, Andersen đến trại của ông già, lúc đó chàng đã là một sinh
viên. Ông lão thủy thủ đã mất nhưng một đoàn thiếu nữ xinh đẹp và đầy
nhiệt tình, cháu nội của ông già, đã ồn ào ra đón nhà thơ trẻ giữa những
vòng hoa.
Chính vào thời gian ấy, lần đầu tiên trong đời, Andersen cảm thấy mình
yêu một trong số những cô gái nọ. Tình yêu ấy, tiếc thay, lại mờ nhạt và
không được đáp lại. Trong cuộc sống không phẳng lặng của ông, những lần
say mê đàn bà đã xảy ra đều tương tự như vậy.
Andersen đã mơ ước về tất cả những gì chàng có thể nghĩ tới. Cha mẹ
chàng thì lại mong mỏi cho chàng có thể trở thành một người thợ may cừ.
Mẹ chàng dạy chàng cắt và khâu. Nhưng nếu chú bé Andersen có khâu gì
thì đó là những bộ quần áo sặc sỡ cho những con búp-bê nhà hát của chú
(lúc đó chú đã có một nhà hát riêng của chú trong nhà.) Thay vào công việc
cắt quần áo, chú bé đã học được lối cắt giấy điêu luyện thành những hình
phức tạp và những cô vũ nữ tí hon đang quay mình trên một chân. Với nghệ
thuật ấy Andersen đã làm mọi người phải kinh ngạc, ngay cả trong tuổi già
của ông.
Tài may vá về sau này đã giúp ích nhà văn Andersen. Ông sửa chữa bản
thảo nhằng nhịt đến nỗi không còn chỗ chữa thêm nữa. Lúc đó Andersen
bèn viết những đoạn chữa lên những tờ giấy rời và cẩn thận lấy chỉ khâu
vào bản thảo.
Khi Andersen vừa mười bốn tuổi thì cha ông mất. Nhớ lại chuyện đó,
Andersen kể rằng một con dế đã suốt đêm than vãn cho người đã khuất,
trong khi đó suốt đêm chú bé khóc ròng.
Người thợ giày tính tình nhút nhát, không có gì đáng được người đời để ý
đến ngoài việc ông đã tặng cho thế giới con trai của mình - người kể chuyện