khác cả. Bình nguyên này, hay đúng hơn đồng cỏ cao như người ta vẫn
thường gọi thế ở những miền phía bắc, đã trở thành bãi kiếm ăn ưa thích
nhất của con ngựa ô non, mặc dù nơi đây cũng thường xuyên được sử dụng
làm bãi chăn thả bò và ngựa nhà. Ở đây chủ yếu có đàn gia súc được đóng
con dấu gồm hai chữ L và F chồng lên nhau.
Ông Foster, người chủ cái trang trại này là một người tháo vát. Ông
cho rằng, nếu phát triển những gia súc được tuyển lựa tại vùng này thì lời
lãi sẽ tăng. Ông đã có, mười con ngựa cái lai giống, cao to, phát triển cân
đối, có cặp mắt như mắt hươu. Xếp bên cạnh chúng thì lũ ngựa bờm xờm
bình thường trở thành còm cõi đáng thương.
Bao giờ cũng có một con trong số ngựa cái đẹp đẽ đó ở lại tàu để làm
việc, còn chín con khác sau khi cho ngựa non bú xong thường được thả cho
chạy rông.
Ngựa luôn luôn biết cách tìm ra chỗ ăn tốt nhất. Và chín con ngựa cái
dễ dàng tìm ra đường đến suối Sơn dương nằm cách trang trại hai mươi
dặm về phía nam. Ít lâu sau, đến mùa hè Foster và người nhà đi tìm chúng
và chẳng mấy chốc ông đã trông thấy bầy ngựa. Nhưng trong đám ngựa lại
có cả con ngựa đực đen như mun đang chăn dắt chúng như người chủ. Nó
chạy xung quanh, không cho chúng chạy lung tung, và màu lông ngựa ô
của nó nổi bật lên giữa đám lông vàng của đàn ngựa cái.
Ngựa cái vốn tính hiền lành, và chắc chắn chúng sẽ ngoan ngoãn quay
về nhà, nếu như con ngựa ô không bỗng dưng nổi giận. Dường như nó
truyền nhiễm tính hoang dã cho cả đàn ngựa cái, và những con ngựa này
lao vút đi, để lại tít đàng sau lưng lũ ngựa quê mùa cùng với cái trang trại.
Điều này làm cho hai người kị mã phát khùng. Họ vớ lấy súng định
ngắm bắn "con ngựa đực đáng nguyền rủa". Nhưng bắn sao được khi mà
chín phần mười khả năng là sẽ bắn trúng lũ ngựa cái?