trỏ thận trọng chạm vào cái van chiếc kèn co. Rồi tôi liều ấn xuống một cái:
Nó kêu lên lách cách. Vẻ biết lỗi, tôi lùi lại khi nghe thấy tiếng động bên
phía phòng ăn.
Rồi tiếng chuông báo hiệu kêu leng keng, báo cho người thổi kèn co bắt
đầu phần diễn của mình. Tôi chờ gã nhạc công xuất hiện với đôi chút bẽn
lẽn, hy vọng anh ta sẽ không nhận thấy tôi đã nghịch trộm nhạc cụ của anh
ta như một đứa trẻ. Nhưng chẳng thấy anh ta đâu. Nỗi lo vọt tăng. Tôi xô
vào phòng ăn. Ở đó, ngay đầu bàn, một gã lính đang ngồi ngủ say như chết:
Trước mặt gã la liệt năm cái bình rượu rỗng. Tôi túm cổ áo gã lắc mạnh. Gã
làu bàu, ngất ngưỡng giơ quả đấm lên huơ huơ, rồi lại gục xuống bất động.
Tức điên lên, vừa thề sẽ bắn bỏ gã bởi sự quấy phá này, tôi vừa chạy trở lại
gian đại sảnh. Tiếng chuông lại vang lên. Hồi chuông thứ hai đòi tiếng tù
và. Cả sàn diễn chờ đợi. Cùng quẫn, tôi không nghĩ ra cách gì để cứu vở
diễn. Tôi vồ lấy cây kèn co, đặt cái đầu nhỏ của nó lên miệng và thổi phù
một cái thật mạnh. Phí cả hơi ! Chẳng có tiếng động nào phát ra. Tôi rũ ra
vì gắng sức và chiếc kèn đồng tuột khỏi bàn tay ẩm ướt. Tiếng chuông lại
vang lên khẩn cấp, phá tan bầu im lặng huỷ diệt. Thế là tôi chộp lấy cây
kèn như cái mỏ cặp; căng phồng ngực lên, giúi cái miệng kèn lên môi, lấy
răng cắn chặt như muốn nghiến đứt ra, tôi hung hăng khạc mạnh một cái.
Kết quả phát ra một tiếng vang khủng khiếp, chói tai, bóng đèn quay vù vù,
mũ của khách ngóc lên khỏi giá treo; tôi bịt chặt hai thái dương vừa lúc gã
lính nhảy bổ ra, tái mét, như thể tiếng kèn đã dựng gã dậy, lôi gã ra đối mặt
với một đám đông các khách mời sửng sốt ùa cả ra cầu thang.
*
Ba tháng sau đó, tôi mời một ông thày lão luyện về để học thổi kèn co. Tôi
thấy bất ổn trước bộ dạng trung lưu lớp dưới cùng với cái mánh vặt chán
ngắt của ông khi cứ nhắc đi nhắc lại rằng kèn 'o (như cách gọi của ông ta)
có lẽ gần với tiếng người nhất trong tất cả các loại nhạc cụ. Nhưng ông thạo