bằng hàng ngàn kỷ niệm tuổi thơ và tận hưởng nó như biến cố mạnh mẽ
đầu tiên trong đời mình.
Đằng nào cũng thế, dẫu cuộc đời mở ra cho ta đến nông nỗi khiến ta đành
coi đó là ‘hạnh phúc’ khi tự thân nó, cuộc đời chẳng là một điều tốt lành đó
sao ? Johanes Friđơman cảm thấy thế, nên cậu yêu đời. Không một ai hiểu
cậu, kẻ đã khước từ cái hạnh phúc lớn lao nhất mà cuộc đời có thể mang lại
cho con người, lại biết tận hưởng những thú vui gần gũi với mình bằng cả
tấm lòng chăm chút nhiệt thành ra sao. Một cuộc dạo chơi vào mùa xuân
trên khu pháo đài cổ ngoài thành phố, hương thơm một loài hoa, một tiếng
chim hót – chẳng nhẽ người ta không biết ơn về những điều đó được sao ?
Và, trong khả năng cảm thụ còn có cả học vấn, phải, học vấn luôn cân bằng
với khả năng cảm thụ, cậu cũng hiểu điều đó: và cậu tự bồi đắp mình.
Cậu yêu âm nhạc và có mặt tại tất cả các buổi hoà nhạc được tổ chức trong
thành phố. Bản thân cậu dần dần cũng chơi viôlông không đến nỗi tồi, và
mặc dù lúc chơi đàn trông cậu hết sức kỳ quặc, nhưng cậu rất phấn khởi
mỗi khi đánh được một âm thanh đẹp và mềm mại. Qua nhiều sách vở, dần
dần cậu cũng có được một cảm quan văn học hẳn không chia sẻ được cùng
ai trong thành phố... Cậu nắm được những tác phẩm tương đối mới, xuất
bản trong nước và nước ngoài, cậu biết thưởng thức vẻ hấp dẫn trong nhịp
điệu một bài thơ, biết để cho âm hưởng kín đáo của một truyện ngắn tinh tế
tác động đến mình... Ồ ! Ta có thể tạm cho cậu là một tay sành hưởng lạc.
Cậu học cách quan niệm rằng mọi thứ đều đáng tận hưởng, và có họa điên
rồ thì mới đi phân biệt giữa những biến cố hạnh phúc và biến cố bất hạnh.
Cậu tiếp nhận, sẵn sàng đến mức tối đa, những cảm giác và trạng thái của
tâm hồn mình, và chăm chút chúng, cái u buồn cũng như cái có phần vui vẻ
hơn: kể cả những ước vọng không được thoả mãn - nỗi khát khao. Cậu yêu
những ước vọng đó vì chính bản thân chúng, và tự bảo, nếu được thoả mãn
thì điều tốt đẹp nhất cũng chẳng còn nữa. Niềm hi vọng và nỗi khát khao
phấp phỏng, ngọt ngào và tê tái của những đêm xuân yên tĩnh chẳng giàu