một ánh sao loé lên giữa các vòm lá”.
Ngài không trả lời, mà đưa mắt nhìn cái vệt sáng loé màu xanh xanh mà họ
đang tới gần. Có thể nhận ra cả bờ bên kia với hệ thống pháo đài cổ. Lúc họ
ra khỏi đường và đặt chân lên bãi cỏ thoai thoải dốc xuống bở sông, phu
nhân Phôn Rinlingen nói:
“Rẽ sang phải một chút là tới; ông thấy không, chỗ ấy chưa có ai ngồi”.
Họ ngồi xuống chiếc ghế băng ở rìa bãi cỏ, cách đại lộ sáu bước chân. Ở
đây ấm áp hơn là dưới những gốc cây to. Có tiếng dế kêu trong đám cỏ, sát
mặt nước là một vạt bông lau mỏng manh. Dòng sông tắm ánh trăng sáng
lên dìu dịu.
Cả hai cùng im lặng một lúc rồi nhìn ra mặt nước.
Nhưng lát sau, ngài xúc động đến tột độ lắng nghe, vì giọng nói ấy, giọng
nói êm ái, trầm ngâm, dịu dàng mà một tuần trước đây ngài đã được nghe,
nay lại làm ngài xao xuyến:
“Ông Friđơman, ông bị tật từ hồi nào vậy ?” phu nhân hỏi. “Ông sinh ra đã
thế rồi sao ?”
Ngài nuốt khan, vì cổ họng như tắc lại. Rồi ngoan ngoãn trả lời:
“Không, thưa quý bà. Hồi còn nhỏ, tôi bị người ta đánh rơi xuống đất, bắt
đầu từ đó đấy ạ !
“Thế bây giờ ông bao nhiêu tuổi ?” Phu nhân hỏi tiếp.
“Thưa quý bà, ba mươi”.
“Ba mươi”, phu nhân lặp lại. “Và ba mươi năm ấy ông không được hạnh
phúc lắm phải không ?”