nhà thờ ông nghe thấy tiếng xì xào tán thưởng của đám người Krêôn:
“Chúng ta có một tay gác đèn bảnh thật !”.
“Mà ông ấy chẳng hề ra vẻ chút nào, mặc dù là dân Mẽo”. Sau lễ mi xa,
ông lão quay về với tháp đèn, đầy hạnh phúc, bởi ông vẫn chưa dám đặt
lòng tin vào đất liền. Cũng thường vào chủ nhật, ông đọc tin tức ở một tờ
báo tiếng Tây Ban Nha mua trong phố hoặc tờ Diễn đàn New York mượn
của ngài Fancôbritgiơ, và tỉ mẩn dò tìm những mẩu tin về châu Âu. Ôi, trái
tim già tội nghiệp ! Ở trên ngọn tháp đèn tít tận bán cầu xa xôi này vẫn đập
về quê hương... Đôi khi, lúc chiếc thuyền chở thức ăn và nước uống ra đảo
cho ông, ông lão từ tháp đèn lần xuống chuyện gẫu với gã Giônx, người
canh gác cảng.
Nhưng rồi một thời gian sau đó, ông có vẻ trở nên hoang dã dần đi. Ông
thôi không còn lai vãng vào phố, thôi đọc báo chí và cũng thôi những câu
chuyện thời thế với gã Giônx. Hàng tuần liền chẳng ai nhìn thấy ông, mà
ông cũng chẳng gặp người nào.
Dấu hiệu duy nhất chứng tỏ ông vẫn còn sống là lương thực người ta để lại
trên bờ đá cho ông được lấy đi và ánh sáng ngọn đèn biển vẫn được đốt lên
một cách đều đặn như mặt trời xứ này đều đặn nhô lên từ mặt biển. Hình
như ông đã hoàn toàn dửng dưng với cuộc đời. Nguyên nhân của sự dửng
dưng đó không phải là nỗi hoài vọng cố hương, mà ngay cả nỗi hoài vọng
kia cũng dần nhuốm màu tuyệt vọng. Giờ đây, đối với ông, cả thế giới bắt
đầu và kết thúc chính ngay trên hòn đảo này. Ông vui sướng với ý nghĩ là
cho đến lúc chết sẽ không bao giờ phải rời khỏi ngọn tháp đèn, ông hầu như
quên hết thảy mọi thứ khác trên đời ngoài tháp đèn của mình. Ông trở nên
mê tín, cặp mắt xanh hiền hậu của ông ngày càng giống đôi mắt trẻ thơ, cứ
nhìn đăm đắm vào một chốn xa xăm nào đó. Trong cảnh cô đơn triền miên,
sống giữa quang cảnh vừa rất mực hoang sơ và vừa vô cùng khoáng đạt,
ông mất dần đi cảm giác về bản thân mình, ông gần như thôi không còn tồn
tại như một cá thể độc lập nữa, mà ngày càng hoà nhập, ngày càng tan lẫn