vào môi trường chung quanh. Thực ra ông cũng chẳng ý thức được điều đó
mà chỉ cảm nhận nó, song rốt cuộc, đối với ông, cả bầu trời, mặt nước, hòn
đảo đá, ngọn tháp đèn, những cồn cát vàng óng, những cánh buồm no gió
phồng căng, cả lũ chim hải âu cùng làn nước thuỷ triều lên xuống... tất cả
hoà thành một khối duy nhất, mênh mông, một linh hồn bao la, huyền bí,
và chính ông cũng đắm trong cảnh sống đặc biệt ấy, chính trong trạng thái
nửa tỉnh nửa mê ấy, ông lão tìm thấy cho mình một nỗi yên tĩnh vô biên,
nỗi yên bình của một kẻ đã gần đất xa trời.
II
Nhưng rồi sự tỉnh thức vẫn cứ đến.
Hôm ấy, khoảng một giờ sau khi chiếc thuyền chở thức ăn và nước uống
cặp đảo, ông lão Xkavinxki mới lần từ tháp đèn xuống lấy hàng, và ông
chợt nhận thấy ngoài những thứ thường ngày còn có thêm một cái gói nữa.
Trên mặt vải thô dây bọc bên ngoài có dấu bưu cục Mỹ và nổi bật địa chỉ:
“Ngài Xkavinxki”. Ngạc nhiên, ông rọc lần vải bọc ngoài và trông thấy
mấy quyển sách. Tay run run, ông cầm lên một quyển nhìn lướt qua rồi lại
thẫn thờ đặt xuống. Ông lấy tay dụi mắt, dường như không thể tin vào
chính mắt mình, ông ngỡ như mình đang mơ - bởi vì đó là một cuốn sách
tiếng Ba Lan !
Chuyện gì thế này ? Ai có thể gửi sách cho ông cơ chứ ? Thoạt đầu, ông lão
không thể nhớ ra được là một lần nọ - ngay từ hồi đầu cuộc đời gác đèn
biển của mình - ông đọc trong tờ “Diễn đàn” mượn được, tin về việc thành
lập Hội liên hiệp kiều bào Ba Lan tại New York, và ông đã lập tức gửi ngay
nửa tháng lương của mình cho Hội (thực ra, ngoài tháp đèn, ông lão cũng
chẳng biết dùng tiền vào việc gì). Hội liên hiệp cảm cái ơn ấy nên đã gửi
sách biếu ông.
Sách được chuyển theo cách thức thường tình nhất, song thoạt tiên, vì
choáng váng, ông lão không nhớ ra chuyện ấy. Đối với ông, những quyển