tạp chí phụ nữ nữa. Hai cánh cửa chính đóng sập lại sau lưng cô bé học trò
cuối cùng và không còn mở ra nữa. Khi trong thành phố người ta bắt đầu sử
dụng mạng lưới phục vụ bưu điện không mất tiền, chỉ có một mình cô
Êmily là cấm không cho đóng vào tường chiếc biển kim loại đề số nhà và
hòm thư.
Người ta tìm cách thuyết phục cô, nhưng cô chẳng thèm nghe ai.
Ngày lại ngày, tháng lại tháng, năm lại năm, và chúng tôi nhận thấy tóc bạc
thêm nhiều trên đầu lão da đen thường lê bước dọc phố với chiếc giỏ thức
ăn trong tay, lưng lão ngày một còng gập xuống.
Mỗi độ tháng chạp cô Êmily lại nhận được trát đòi thu thuế và lần nào cũng
thế, cứ một tuần sau cô lại gửi trả nó theo đường bưu điện, không hề động
đến. Thảng hoặc có ai đấy nhìn thấy cô trong một khung cửa nào đó ở tầng
dưới - các phòng tầng trên chắc là khoá chặt. Không bao giờ có thể nói
được một cách chắc chắn, là cô có nhìn thấy ai đó trong số chúng tôi hay
không. Bất động hoàn toàn, trông cô giống một pho tượng thờ bằng đá. Cứ
như thế cô đi từ thế hệ này đến thế hệ khác lạ lùng và gần gũi với tất cả
chúng tôi, câm lặng, khó hiểu và bất chấp.
Thế rồi cô qua đời. Cô ốm và không dậy nổi trong ngôi nhà đầy bụi bặm và
bóng tối, nơi bất quá chỉ có lão da đen già nua là có thể chăm sóc được cho
cô. Thậm chí không một ai trong thành phố biết rằng cô ốm, chúng tôi đã
lâu không buồn hỏi lão đầy tớ chút gì nữa. Lão không nói chuyện với một
ai, với cô chắc cũng thế, vì vậy giọng lão trở nên khàn khàn, như thể bị han
gỉ, bởi đã lâu không dùng đến.
Cô qua đời tại một trong những gian phòng tầng dưới, trên chiếc giường gỗ
hồ đào lớn có che màn mỏng, mái đầu bạc của cô nằm yên trên chiếc gối đã
ngả vàng và mốc meo vì cũ kỹ và thiếu ánh nắng mặt trời.
5