tường phả ra. Mặt tôi tái nhợt vì mệt, tai rỉ máu do bị tên lính canh đánh và
họ đứng đó, to lớn, đen sì, nhìn tôi lặng lẽ.
Lúc đó đúng giữa trưa. Mặt trời hắt lửa, cả bầu trời phản chiếu xuống,
những tấm tôn bị nung trắng. Vẫn là thứ im ắng ấy và họ nhìn tôi. Thời
gian tiếp tục trôi nhưng họ vẫn nhìn tôi mãi. Phần tôi, tôi không chịu nổi
những luồng mắt ấy, tôi mỗi lúc một thở hổn hển. Rồi đột nhiên, không nói
một lời, tất cả bọn họ quay lưng, cùng bỏ rơi tôi và đi về một hướng... Tôi
quỳ gối và chỉ nhìn thấy những chiếc dép đỏ và đen, nhưng bàn chân của
họ mũi nhấc hơi cao, gót đập xuống đất, và khi bãi trống không còn ai nữa,
bọn lính canh giải tôi về căn nhà thờ linh vật.
Ngồi xổm, cũng như lúc này núp bên dưới tảng đá và lửa nóng vẫn xuyên
qua tảng đá xuống tôi, tôi đã bao nhiêu ngày sống trong bóng tối của căn
nhà thờ linh vật, hơi cao hơn các nhà khác, bao bọc một hàng rào bằng
muối, nhưng không cửa sổ, tối đen, với những ánh lấp lánh của tinh thể
muối.
Nhiều ngày như thế. Họ cho tôi mỗi ngày thột thìa nước mặn và ít hạt ngũ
cốc vất xuống đất như cho gà để tôi nhặt lấy ăn... Ban ngày cửa vẫn đóng
kín, tuy vậy bóng tối cũng giảm đi đôi chút, như thể ánh nắng vẫn thấm qua
được lớp muối. Không có đèn, tôi dò dẫm theo các bức tường, đụng vào
những lá cọ khô khốc trang trí dính vào tường. Tôi lần vào sâu bên trong và
thấy một cánh cửa, tôi sờ được thấy then. Rất nhiều ngày sau đó, nhiều lắm,
không thể đếm xuể cũng như không đếm xuể giờ giấc.
Nhưng họ đã vứt những hạt ngũ cốc vào cho tôi thế là mười lần và tôi đào
một cái hố để đại tiện. Tôi đã đậy nhưng mùi uế khí vẫn nồng nặc, đúng là
một cái hang hốc của loài thú vật. Cuối cùng đến một hôm cửa mở ra và họ
bước vào. Tôi ngồi xổm trong một góc nhà. Một người trong bọn họ bước
đến gần tôi. Tôi thấy má tôi áp vào bức tường muốn nóng bỏng, mũi tôi
ngửi thấy mùi lá cọ khô và mắt tôi nhìn người đó. Y dừng lại cách tôi
chừng một mét, lặng lẽ nhìn thẳng vào mắt tôi, rồi ra hiệu cho tôi đứng lên.