xin nhận phần trìu mến, xin được bố thí cả một phần bánh hay dâu dại. Vào
những buổi bình minh yên tĩnh, khi Bhagát trèo lên tận đỉnh đèo ngắm một
ngày hồng dạo qua những đỉnh tuyết, Xôna cứ theo gót ông, vừa lê bước
vừa gầm gừ, thọc một chân trước tò mò vào bên dưới cái thân cây đỏ, rồi
lật chúng đi, mồm gừ lên một tiếng bực bội. Cũng có lúc những bước chân
sớm sủa của ông đánh thức Xôna đang cuộn tròn mà ngủ: con vật cục súc
mà đồ sộ vươn thẳng lên, sẵn sàng chiến đấu, cho đến khi nó nghe được
giọng Bhagát nói, nhận ra người bạn thân thiết của mình.
Hầu như mọi nhà ẩn dật, mọi bậc thánh nhân, mọi người sống cách biệt với
đô thị lớn, đều nổi tiếng có tài làm được phép lạ với dã thú, nhưng toàn bộ
phép lạ ấy chỉ là lặng yên, chỉ là đừng có bao giờ làm một cử chỉ vội vàng
và trong một thời gian dài, ít nhất cũng không bao giờ nhìn thẳng vào
khách của mình. Dân làng thấy Baraxinh đi đứng đường bệ như một chiếc
bóng qua rừng thẳm phía sau miếu, thấy Minôl, con gà lôi đỏ vùng
Himalaia, rực rỡ trong những sắc màu đẹp nhất của nó trước tượng Kali,
thấy bọn Langua ngồi chồm hổm trong miếu mà nghịch vỏ hồ đào. Cả mấy
đứa trẻ con nữa cũng đã nghe Xôna hát một mình, hát giọng gấu, đằng sau
những tảng đá rơi. Thế là danh tiếng có phép màu của vị Bhagát cứ đứng
vững.
Ấy thế mà chẳng có gì cách biệt với suy nghĩ của ông hơn là phép màu.
Ông tin rằng tất cả mọi vật là một phép màu lớn. Mà một khi đã hiểu được
đến chừng ấy, thì người ta cũng đã hiểu được chút gì đó để có đường mà đi.
Ông biết chắc rằng, trên đời này, không có gì lớn mà chẳng có gì nhỏ: ngày
đêm, ông cố tìm cho ra lối đi vào tâm của mọi vật, để trở về với xuất phát
của tâm mình.
Ông cứ đà đó mà ngẫm, mà suy, mớ tóc không tỉa đã trùm xuống đôi vai.
Bên tấm da linh dương, phiến đá đã thủng một lỗ nhỏ dưới chân chiếc gậy
cán đồng. Nơi cái bát xin ăn ngày lại ngày tựa vào chạc cây cũng đã lõm
xuống, nhẵn không kém gì chiếc vỏ dừa nâu. Từng con vật biết đích chỗ