Lần đầu tiên trong vòng mười hai năm nay, Nenxông Pharina không đi đón
chào ngài nghị viên Ônêximô Săngchez. Gã nằm trên võng dưới bóng mát
căn nhà lợp những tấm ván thô để nghe ngài diễn thuyết. Đây là căn nhà do
chính bàn tay gã làm nên, những bàn tay đã từng chặt người vợ cả của gã ra
thành từng khúc. Gã trốn khỏi nhà tù Gađênna và xuất hiện ở làng Vườn
hồng của Phó vương. Gã tới đây cùng với một người phụ nữ da đen - đẹp
nhưng ăn nói lăng loàn, gặp được Paramaribô trên một con tàu chở toàn
những con vẹt ngây thơ. Người vợ này đẻ cho gã một người con gái.
Sau đó ít lâu, người đàn bà chết vì bị bệnh và được chôn cất tử tế với bia
mộ chỉ viết bằng chữ Hà Lan tại nghĩa địa của làng này, chứ không có cái
may mắn của người vợ cả bị xả thân thành từng khúc đem bón cho vườn
súp lơ. Người con gái đã thừa kế của mẹ nước da và dáng hình, của người
cha đôi mắt vàng sợ sệt. Và vì vậy người cha có lý do để tin rằng mình
đang dưỡng dục người đàn bà đẹp nhất trần gian.
Kể từ ngày quen biết nghị viên Ônêximô Săngchez trong chiến dịch vận
động tuyển cử đầu tiên, Nenxông Pharina từng khẩn khoản xin ngài giúp
cho một tờ chứng minh giả để cứu gã khỏi sự trừng phạt của luật pháp. Nhã
nhặn nhưng kiên quyết nghị viên Ônêximô Săngchez đã từ chối gã.
Trong vài năm liền Nenxông Pharina không chịu nhụt chí, và cứ mỗi khi
gặp dịp gã lại nêu vấn đề với những thủ đoạn khác nhau. Lần nào cũng như
lần nào gã nằm lì trên võng thà chịu chết dần chết mòn trong cái nơi ẩn náu
nóng bỏng của những tên cướp biển ấy. Khi nghe thấy những tràng vỗ tay
cuối cùng của công chúng, gã ngẩng đầu lên khỏi chiếc võng, nhờ vậy, qua
khe hở của hàng rào gần kề, gã nhìn thấy mặt trái của màn hài kịch: chiếc
khung của bức áp phích vẽ thành phố với những ngôi nhà, thấy giàn giáo
đỡ những cây cối làm giả, thấy cả một lũ người làm ảo thuật nấp sau con
tàu vượt đại dương đang cố sức đẩy nó bơi đi. Gã buông một tiếng than não
nề từ đáy lòng mình.
- Merde - gã nói – c’est le Blacaman de poletique ([66]).