được thừa nhận, theo tập tục và có thể nói là đúng lễ nghi tôn giáo của câu
“Bọn cớm chết đi !”, nên chính dưới hình thức này mà tự nhiên hắn thâu
tóm và cụ thể hoá trong lỗ tai hắn những lời của kẻ phạm tội.
- Ái chà ! Anh dám nói: “Bọn cớm chết đi !” Được, hãy đi theo tôi.
Cranhcơbiơ trong cơn kinh hoàng và khốn quẫn cao độ, đưa đôi mắt mở to
loá nắng nhìn viên cảnh binh 64 và bằng một giọng rè rè thoát ra từ đâu đó,
hoặc từ trên đầu xuống, hoặc từ dưới chân lên, bác kêu lên, tay khoanh
trước ngực áo khoác ngoài màu xanh:
- Tôi nói: “bọn cớm chết đi” à ? Tôi ấy à ? ... ồ ?
Tiếng cười của người bán hàng và của trẻ con vang lên như để đón tiếp
cuộc bắt bớ này: nó thoả mãn thị hiếu của đám đông trước cảnh tượng bỉ ổi
và hung hãn. Nhưng một cụ già, vẻ mặt rất buồn, vận quần áo đen, đội
chiếc mũ cao vành, rẽ đám đông, lại gần viên cảnh binh, khẽ nói rất dịu
dàng và kiên quyết:
- Ông nhầm rồi, người này không chửi ông đâu.
- Không việc gì đến ông thì đừng chõ vào ! - Viên cảnh binh đáp lại, không
thốt ra lời doạ nạt vì anh ta nói với một người ăn mặc chỉnh tề.
Cụ già năn nỉ hết sức bình tĩnh và kiên trì bền bỉ. Viên cảnh binh ra lệnh
cho cụ đến trình bày với viên chánh cẩm.
Nhưng Cranhcơbiơ kêu lên:
- Nào ! Thế là tôi đã nói :”Bọn cớm chết đi !”.' Ồ !...
Bác nói những điều ngộ nghĩnh này vào lúc bà Baya chạy lại gần bác, tay
cầm mười bốn đồng xu.