lũi trở về từ cuộc chiến. Một vết đạn làm vỡ xương bánh chè, một viên
khác nằm sâu trong bả vai.
Sốc ruộng của bà mẹ vẫn giữ, thóc mẹ trả bà, chỉ xin ba gánh cho chú
Hòa. Mẹ lại lạy chú để về với bố. Chú sang lạy bố, lạy bà xin tha lỗi vì mắc
tội với người ngoài chiến trường. Bố lặng câm không nói. Bố đốt thuốc ba
đêm, nhìn đom đóm về mở hội bên vách nhà. Bà nằm trong trở ra trở vào,
tiếng chèm chẹp ngày một rõ hơn. Mẹ khóc trong buồng, mắt thâm quầng.
Vẫn tất tả ra đi từ tờ mờ, khi gà thôi gáy tiếng cuối cùng, để kịp cấy nửa
sào ruộng khi mặt trời vừa ló lên. Mẹ làm gấp đôi, gấp ba khi trước.
Những ngày sau, bố bảo mẹ bê cho chú bát canh hay mớ rau cần.
Ngày đầu chú ngại, ngày sau nhất định chú không lấy, chú đuổi mẹ về.
Tiếng bà chửi mỗi lúc một to, mỗi lúc một nhiều. Mẹ lẳng lặng ra vào nhiều
hơn. Bố ngày càng ít nói. Có bữa chỉ uống, không ăn, chỉ hút, mà không
ngủ. Tiếng bà cứ chửi, nguýt dài, càng dài. Mẹ vẫn tất tả gánh gồng, tay
che, tay gạt. Bố vẫn vừa như bực, vừa như buồn, mỗi khi gắt: “Thôi mà
mẹ.”
Đến ngày tôi lớn. Đến ngày chú Hòa mất đã lâu. Bà mất, rồi mẹ mất.
Bố ôm tôi vào lòng: “Đời bố mắc lỗi với hai người, là mẹ và chú Hòa. Dù
sao mẹ cũng đã về dưới ấy, mong sao mẹ gặp được chú. Kệ ai nói ra nói
vào, bố vẫn để mẹ nằm cạnh chú ở một đồi chỉ có hai ngôi mộ. Con lớn rồi,
cũng đến lúc con cần hiểu.”
Xa nhà, mỗi bận về quê, tôi lại ra thắp hương cho mẹ. Bố cầm nắm
hương chia nửa, rồi lại chia nửa. Đưa cho tôi một nửa, nửa nữa vào tay kia:
“Con ra thắp hương cho mẹ và chú, bảo chú và mẹ phù hộ cho bố con
mình!” Bố nói xong quay sang thắp nén hương lên bàn thờ bà và khấn, mắt
rơm rớm: “Mẹ đừng giận. Có thể việc này mẹ không đồng ý. Con hiểu mẹ
khổ lắm vì con… Nhưng lòng con chỉ thanh thản khi làm như thế.”