thì bò. Đến nhà quan Tạo phải đi qua hai quả núi đá cao và một con suối
nhỏ. Năm nào cũng một vài lần bị gọi đến làm nương, lấy gỗ cho nhà quan
theo lệ, nên Phạnh thuộc đường đến nhà quan như con kiến thuộc lối về
hang vậy.
Gần nửa đêm thì Phạnh đến được nhà quan. Nhà quan vẫn còn thức.
Người ra người vào cứ đông nườm nượp như tổ ong gặp hơi lửa. Mùi thịt
nướng thơm róm rém, mùi rượu ngô lứ đứ say. Rồi cả mùi thuốc phiện khói
đầu thơm ngất ngả uốn éo, lả lơi gạ tình khiến những con chó nhà quan
cũng ngật ngà lim dim, quên cả sủa khi có người lạ đến.
Nghiến răng chịu đau, Phạnh cố lết về phía cổng.
Thằng Phống cùng mấy người hầu đang đốt rơm thui con hoẵng dưới
chân cầu thang quản. Con hoẵng thui bằng rơm nếp vàng ruộm, tròn căng.
Vừa nhìn thấy Phạnh, Phống đứng dậy nhớt nhả:
- Mày còn bò được sang đến đây cơ à, giỏi đấy. Vợ mày vừa bị quan
mời thầy cúng làm lễ bỏ chồng rồi. Bây giờ đang làm cúng để nhận vợ mày
thành vợ quan Tạo đấy. Thằng con mày quan bảo tao vứt nó ở chân núi Mơ
Tươi, không ra mà tìm nhanh là thành phân cho con hổ đói, đợi nhặt cục
phân về mà nuôi.
Phạnh thấy tai mình ù đi như có hàng trăm con ve kêu ở trong. Phạnh
lao tới đấm thẳng vào mặt thằng Phống rồi chạy vội vào rừng đêm. Phải đi
tìm thằng Ổn thôi.Thằng Phống có mặt người mà bụng còn ác hơn con rắn
hổ mang mùa đẻ. Con trai Phạnh nó mới hơn năm tháng mà bị vứt trong
rừng thì làm sao biết đường tìm về nhà. Trong rừng lại có nhiều sói, có cả
con hổ què.
Phạnh bỗng thấy rủn hết người, không dám nghĩ tiếp.