Giữa đám người này, vị trí của tôi thật dở hết chỗ nói: vì chú thiếu
niên mười lăm tuổi, tôi, được chủ thầu cử đến để’ ghi chép những chi phí
vê vật liệu, theo dõi sao cho đám thợ mộc khỏi ăn cắp đinh, không lôi gỗ
đến quán đổi rượu. Đám thợ mộc đã ăn cắp đinh không hê kiêng nể gì tôi,
lại còn cố tỏ cho tôi thấy rằng giữa bọn họ, tôi là người thừa, làm họ ngán
ngẩm. Và nếu như người nào đó thấy có dịp va mảnh ván vào người tôi hay
bằng cách nào khác, gây cho tôi một sự tủi bực nhỏ là họ biết cách làm việc
đó rất khéo léo.
Đối với họ, tôi thấy lúng túng, ngượng ngập, tôi cứ muốn nói với họ
điều gì có thể dàn hòa giữa họ với tôi nhưng tôi không tìm ra lời lẽ cần
thiết, mà cái cảm giác khó chịu rằng mình là con người thừa cứ đè nặng lên
tôi.
Mỗi lần tôi ghi vào sổ số lượng vật liệu lấy dùng, Ôxip lại khoan thai
đến bên và hỏi.
- Vẽ rồi à? Nào, cho xem với nào...
Lão nheo nheo mắt nhìn vào chỗ ghi chép và nói một cách bâng quơ:
- Cậu viết nhỏ quá...
Lão chỉ biết đọc chữ in, viết cũng viết theo kiểu chữ in sách nhà thờ -
kiểu chữ thường lão nhìn không hiểu.
- Cái chậu giặt này là chữ gì vậy?
- Tốt!
- Tô-ốt! Gớm, cái thòng lọng gớm chửa. Thế còn dòng này thì viết cái
gì?
- Ván dày một versôc[2] dài chín arsin, năm tấm.