- Không còn một ai! - Anh Tư già không phải hỏi mà lặp lại như tiếng
vang.
Ba năm sau. Trong ba năm ấy, tôi xê dịch ba nơi: ở chiến trường Đồng
Tháp một mùa nước thì trở về R. Từ R theo một cách quân tiến về Sài Gòn
năm Mậu Thân, rồi từ chiến trường Sài Gòn lại trở về R. còn anh Tư già thì
ở Bến Tre, nhưng không ngồi yên một chỗ, khi ở cù lao này lúc ở cù lao
khác, mỗi lần thay đổi cù lao là phải vượt sông trong tầm súng của tàu tuần,
dưới tầm bay của trực thăng.
Cả hai đều suýt chết nhiều lần nhưng không chết mà gặp nhau trên
một cái hồ giữa rừng biên giới. Một cái hồ mênh mông có một dòng sông
nhỏ nối liền sông Cửu Long, nhờ đó mà cá từ Biển Hồ xuôi theo sông Cửu
Long, rẽ vào nhánh sông nhỏ, vào hồ trú ngụ sanh đẻ. Độ mươi cái nhà bè
sống trên hồ, sống bằng nghề đánh cá.
Anh em ở chiến trường về, bệnh hoạn hoặc ốm yếu mới được ra hồ để
bồi dưỡng. Hồ có rất nhiều loại cá: cá bống, cá lăn, cá trèn... có một loại cá
dễ câu nhất là cá thác lác, dễ câu là vì biết được cái khẩu vị của nó. Mồi
trùn, mồi dế, mồi cào cào cá thác lác không mê lắm, nó mê nhất là mồi con
gián. Đêm đêm, một thằng bạn chuyên làm nhiệm vụ bắt gián, sáng ra thì
tôi đi câu. Nói là đi chứ chẳng đi đâu. Nhà bè nào cũng có vài cái lỗ độ hai
tấc vuông để tuôn rác xuống hồ. Cái cần câu ở đây chẳng có gì thơ mộng
nhưng rất thực dụng, là một khúc tre già bằng ngón tay cái, dài bốn năm
tấc, cả hai đầu đều bằng nhau buộc nhợ câu vào đầu nào cũng được, ngắn
gọn mà chắc. Tôi móc con gián vào lưỡi câu, ngồi trên sàn gỗ của nhà bè,
mở cái nắp lỗ, thả xuống.
Không phải đợi lâu, chỉ cần hút vài ba hơi thuốc là cần câu bị ghì
xuống, giật lên, con cá thác lác bề ngang bằng bàn tay, vẩy bạc li ti, mắc
vào lưỡi câu uốn mình giẫy giụa, tôi khéo léo kéo qua lỗ đưa nó lên sàn,
một con. Mỗi sáng chỉ cần ngồi câu độ nửa tiếng là có bốn năm con thác
lác, đủ ăn cả một ngày. Nhiệm vụ của tôi thế là xong. Phần còn lại là của