- Đâu mầy có?
- Bên vợ.
Tôi nói như hét:
- Mầy có vợ?
- Chẳng lẽ ở góa?
- Ai? ở đâu?
- Âấy, từ từ rồi tao kể.
Thằng bạn anh hùng của tôi, nó vẫn như xưa, vẫn là thằng Tấn, vẫn
xuề xoà, vẫn cởi mở, tôi bỗng ước gì có mấy thằng bạn cùng đường năm
trước cũng có mặt ở đây. "Tao nói có sai đâu, nó rất điệu đời mà!".
Sau một tuần trà, vừa ném cái tàn thuốc, nó xề lại bếp lửa, đặt con khô
sặt lên than hồng.
Ôi, chẳng biết bao nhiêu năm rồi tôi mới nghe lại cái mùi thơm của
con khô quê hương. Chúng tôi lại nhắc đến mùa nước nổi, mùa giăng câu,
mùa đặt lọp đặt lờ trên đồng nước.
Hai đứa hai chiếc võng mắc song song, giữa là chiếc bàn nhỏ được trải
bằng chiếc ni lông màu lá. Trên bàn: bình toong rượu Tấn mang tới, hai cái
chén mắt trâu, ba con khô sặt bằng bàn tay trên tờ bản thảo. Vài giọt nắng
rơi qua kẽ lá, râm ran tiếng ve rừng, và tiếng rền rĩ ì ầm của phản lực quần
đảo trên bầu trời.
- Mầy là nhà báo, nhà văn, tao nghĩ là mầy không giận tao. Mới nghe
sẽ được tuyển làm anh hùng, thằng nào không khoái. Khi được phong anh
hùng rồi, tao thấy khổ hơn làm dâu trăm họ. Có lúc tao nghĩ, tao không còn
là tao nữa, tao như thằng nào vậy!