Người ta nói chuyện ấy trong quán rượu. Ông chủ quán câm liền rót
đầy một ly rượu màu hồng quân trịnh trọng đưa cho bà Tư Trầu và rót
nhiều ly khác cho những bà, những chị, những em đang có mặt. Những bà,
những chị, những em đều uống cạn những ly rượu do người câm rót ra.
Rượu ấy là rượu đặc biệt do chính tay chủ quán cất bằng trái cây, rượu dành
riêng cho đàn bà, rượu không cay nồng, rượu ngọt và rượu uống không say.
Giặc lê máy chém đến. Chúng giết bà Tư Trầu và giết nhiều người
khác nữa. Trong làng, có thêm những đứa bé chít khăn tang.Cái quán rượu
không còn ồn ào nữa. Nhưng quán rượu của người câm không vắng khách -
những người ghiền, những người say lại đến với quán rượu.
Bỗng một ngày, không một khách rượu nào đến, ngoài đường cũng
chẳng thấy ai đi. Dưới bến, chẳng có một chiếc xuồng, ghe nào qua lại.
Người chủ quán câm chỉ còn biết ú ớ cũng chẳng có ai để cho ông ta ú ớ
nữa, trong làng chỉ còn nghe có tiếng sóng. Sự im lặng của mọi người đang
nín thở ấy kéo dài gần nửa đêm. Như một hơi thở dài bị đè ép bỗng trút ra,
bất thần, cả làng bỗng dấy lên. Nhà thờ kéo chuông, nhà chùa nện đại đồng
chung, người ta đánh trống, người ta đánh mõ, người ta đánh thùng thiếc,
người ta đánh xoong, đánh bất cứ cái gì gây ra tiếng động. Người ta hò hét,
người ta vác cái gì như súng, người ta đi, người ta gọi nhau, kêu rủ nhau,
người ta gọi cả ông câm chủ quán rượu. Người ta báo cho nhau một cái tin
lạ " Đồng khởi". Người ở tất cả các ngả xóm, các con đường làng cứ đổ ra.
Người trong làng cũng bấy nhiêu đó, nhưng đêm đó lại đông hơn, đông hơn
gấp mười, gấp trăm. Người kéo đi cuồn cuộn, kéo tràn đến dồn bót giặc.
Người ta cho nổ những tiếng nổ lớn.
Bọn giặc trong đồn, trong bót hoảng hốt. Nghe những tiếng nổ tiếng
trống, và mọi thứ tiếng vang dội lên mỗi lúc một dữ dội, chúng thấy cái
đồn, cái bót của chúng như những chiếc xuồng con đang bị sóng của một
cơn bão đang bủa tới, chúng nhớ những người chúng giết, nhớ những người
chúng bắt, nhớ những người chúng đánh, nhớ những gia đình do bàn tay