để trí theo đuổi cái ý tưởng đương bỏ dở.
Chàng tự nhủ:
- Nhưng mình không làm thiệt hại đến ai, mình có quyền sung sướng
được không?
Trước kia chàng đã sung sướng, nhưng chàng sung sướng một cách vô
tri vô thức, đến nay đã sực tỉnh, đã hiểu biết; nếu cái sung sướng ấy không
vững thì tất nó không thật, không chính đáng. Chàng mang máng thấy cần
phải tìm một cách sống khác, một quan niệm khác về hạnh phúc có thể đem
ra đời với những cảnh thực đau đớn bên ngoài mà không rung chuyển. Một
khi đã nghĩ đến chàng không thể khư khư ôm lấy cái thú chật hẹp của
chàng trước kia được nữa; hạnh phúc của chàng từ nay chàng đã thấy rõ rệt
rằng nó phải liên lạc với hạnh phúc của những người chung quanh; đời
chàng, đời một người dân dã đã nhờ sự may mắn được sáng sủa, cần phải
ăn nhịp với đời đám dân quê tối tăm, bạn cũ của chàng. Sự nhịp nhàng ấy
cần cho hạnh phúc đời chàng cũng như sự hòa hợp của các màu cần cho vẻ
đẹp những bức tranh chàng vẽ.
IV
Ăn đã gần xong bữa, Doãn buồn rầu nhìn mâm cơm đầy cao lương mỹ
vị mà không ai đả động tới. Chàng vừa ăn vừa cúi mặt xuống vì chàng
không muốn để Vĩnh ngượng mỗi khi chàng vô tình nhìn thẳng vào mặt
Vĩnh. Từ ngày Vĩnh xin ra làm tri huyện, hai người ít khi gặp nhau, nên
Vĩnh đối với Doãn cũng gần thành một người xa lạ. Doãn không thể nào
tưởng tượng được rằng người mặc quần áo ta, đội khăn tề chỉnh, cổ áo viền
sợi dây đỏ ngồi trước mặt chàng lúc đó, trước kia đã nhiều lần cùng chàng
vừa hát nghêu ngao vừa nện mạnh gót giày trên các đường phố ở Pa-ri
những đêm mưa tuyết. Cùng đỗ cử nhân luật một năm, cũng về nước một
chuyến tàu, Vĩnh lo xin ra tri huyện, còn Doãn thì ở yên nhà quê, miệt mài