nhờ có cái tâm ấy mà cái nhân-cách của con người ta mới thành ra tôn-quí
rõ-rệt.
Vũ-trụ xoay-vần, vạn vật biến-đổi, cái hình-hài của người ta cũng phải
theo cái công-lệ ấy. Nhưng người ta mà biết giữ cái tâm để làm chỗ căn-cứ,
để đối đầu với sự vô thường của vạn vật, thì có phải là cái tâm của ta quí
hơn cả vạn vật và lên trên cả vạn vật không ?
Tài với tình tự nó vốn có cái giá-trị, nhưng nếu không có cái tâm để
làm chỗ nương-tựa, thì tài với tình thường hay làm cho ta xiêu-đổ. Tôi
tưởng chỗ ấy là chỗ tác-giả rất lấy làm chú-ý, cho nên mới kết-thúc truyện
Kiều bằng hai câu thơ :
Thiện căn ở tại lòng ta,
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.
Cái lý-thuyết tôi vừa nói đó rất rõ-ràng ở trong các kinh truyện của nhà
Phật. Ai đã đọc qua cũng hiểu ngay được.
Có người nói rằng : Nguyễn Tố-như tiên-sinh dịch ra truyện Kiều, là
một nhà thâm nho nay lại nói tiên-sinh theo Phật-học, thì cho là không đúng
sự thực.
Nguyễn Tố-như tiên-sinh không những đã hiểu rõ cái tư tưởng của
Phật học ở trong truyện Kiều mà thôi, tiên-sinh còn làm bài « Văn-tế Thập
loại chúng sinh »
cũng theo đúng cái tư-tưởng ấy. Vậy tôi dám chắc rằng
tiên-sinh là một người học rộng, tinh-thông cả Nho-học và Phật-học.
Người đời thường lấy cái ý hẹp-hòi cho Nho với Phật là hai cái học trái
nhau, vì thấy chỗ thực-hành Nho thì chú-trọng ở chỗ xử thế, mà Phật thì
chú-trọng ở chỗ xuất thế, rồi nhiều người nhân đó mà bài-xích lẫn nhau. Kỳ
thực về đường lý-thuyết, hai bên có chỗ rất tương đồng với nhau. Xem như
ở đầu sách Đại-học nói rằng ; « Minh minh đức
明明德 », nghĩa là làm sáng
cái đức sáng, mà sách nhà Phật thì nói : « Minh tâm kiến tính », nghĩa là