của ông với những vụ đàm phán giữa người Palestine và Israel. Sau hôm
ông ta bị ám sát, gia đình ông yêu cầu Weisman cầu khẩn Rabin để cho
phép ông ta ít nhất thì cũng được mai táng ở quê nhà.
“Vậy ông bảo ông ấy thế nào?” Gita hỏi Rabin.
“Tôi bảo ông ta là không được – tôi không muốn có bất cứ cuộc tuần
hành nào cả,” Rabin phẩy tay.
Câu trả lời này khiến cho mấy phút im lặng khó chịu kéo dài quanh bàn
tiệc khi mọi người thấy được sự lạnh lùng trong giọng nói của Rabin. Tôi
không phải là vị khách duy nhất sửng sốt vì ông ta đã không động lòng trắc
ẩn trước một người đã chết, mà gia đình họ không mong gì hơn là để ông ta
được yên nghỉ trên mảnh đất của tổ tiên mình, một điều mà tôi nghĩ bất cứ
người Do Thái nào, và đương nhiên là một người của đảng Lao động cũng
nên thông hiểu.
Gita, đọc được ý nghĩ của mọi người, cuối cùng phá tan im lặng bằng
cách nói nhỏ nhẹ với bát xúp của mình, “Mọi việc sẽ tồi tệ đến mức nào nếu
anh cho phép chôn cất ông ta ở đây?”
Sau những cuộc chạm trán kiểu như vậy, tôi bắt đầu tự hỏi mình sự khác
biệt giữa đảng Lao động và đảng Cực hữu, giữa Rabin và Shamir, giữa
Shamir và Peres, hay là giữa Peres và Rabin là gì? Tất cả bọn họ đều gọi Bờ
Tây là “Judea và Samaria”; tất cả bọn họ đều tin tưởng rằng việc chiếm
đóng của quân đội Israel là tốt đẹp, “giai đoạn tươi sáng nhất trong lịch sử”;
và tất cả bọn họ dường như đã chuẩn bị sẵn để gạt mối bất hòa về ý thức hệ
của họ sang một bên và giữ mãi nguyên trạng này.
Tại sao?
Có thể lý do quan trọng nhất các nhà lãnh đạo Israel nhắm tới là tránh trả
lời câu hỏi về việc làm gì với Bờ Tây và Gaza mà trong những năm qua
người láng giềng Ả-rập của họ chẳng hề đặt câu hỏi rõ ràng như vậy để
buộc những người Israel phải trả lời. Người Ả-rập không bao giờ khiến cho
người Israel có cảm giác rằng họ có thể rời khỏi những vùng lãnh thổ này
và vẫn giữ được sự an toàn của mình, do đó mà hầu hết những người Israel
sẵn sàng ở lại bằng mọi giá; người Ả-rập không bao giờ cổ vũ người Isarel
tiến tới bất kỳ lựa chọn nào để giữ nguyên trạng. Từ tháng Tám đến tháng