tôi về cuộc gặp, chứng đa nghi mà tôi vẫn cố kìm hãm suốt cả mùa hè bắt
đầu hoành hành, và tôi nằm chong chong trên giường cả đêm lo lắng rằng
người ta sẽ mở toang được hết cánh cửa tâm hồn mình và phơi nó ra ngoài
ánh sáng. Mohammed, người trợ lý rất mực trung thành và sáng suốt của
tôi, cố gắng làm tôi bình tĩnh bằng việc giải thích chuyện gì đang xảy ra.
“Họ đang cố gắng gây áp lực cho anh thôi,” anh ấy nói, hai tay vặn vào
nhau như thể đang vắt kiệt một mảnh vải đẫm nước ấy.
Sáng hôm sau, tôi và Mohammed tới gặp Labadi. Ông ta đưa cho tôi tờ
điện tín. Tôi đọc hết một lượt rồi đọc nó to lên.
“Nghe có vẻ ổn với tôi đấy chứ, ông Mahmoud,” tôi nói và đặt nó trong
lòng.
“Tốt nhưng chưa đủ,” Labadi lạnh lùng nói.
Mohammed nhảy dựng lên, nói rằng anh ấy đã đọc từng từ một mà tôi
viết về mùa hè đó, và tất cả đều “rất thẳng thắn, rất công bằng.” Labadi cắt
ngang lời anh, và nói rằng tiếng Anh của Mohammed chưa đủ tốt để hiểu
hết những sắc thái của vấn đề tôi viết.
Trong một vài giây căn phòng chỉ hoàn toàn im lặng. Tôi để tờ điện báo
trên đầu gối và nhìn chằm chằm vào Labadi. Labadi nhìn lại tôi, còn
Mohammed thì nhìn vào khoảng không và ngó ngoáy trên ghế đầy lo lắng.
Tôi quyết rằng đã đến lúc ngả bài sòng phẳng.
“Ông Mahmou này,” tôi nói, “hãy để cho mọi chuyện cởi mở. Tôi là
người Do Thái và ông biết tôi là người Do Thái. Khi các biên tập viên của
tôi hỏi tôi sẽ thế nào nếu họ cử một người Do Thái tới Beirut, tôi đã nói với
họ rằng chẳng có vấn đề gì hết. Tôi nói với họ rằng tôi sẽ chẳng bao giờ
đương đầu với bất cứ khó khăn nào với PLO chỉ vì tôn giáo của tôi cả. Nếu
như các luật chơi của trò chơi đã thay đổi, hãy cho tôi biết và tôi sẽ trở về
Commodore và đóng gói hành lý ngay.”
“Không, không,” Libadi xua xua tay đáp lại. “Điều đó không cần thiết.
Chúng tôi chẳng có gì chống đối người Do Thái cả. Chúng tôi chỉ muốn
ông làm tốt hơn trong tương lai mà thôi.”
“Được rồi,” tôi nói. “Tôi sẽ cố gắng trung thực. Từ trước tới nay, tôi vẫn
luôn cố gắng.”