diện Kha phu nhân. Phía sau bà là mấy chiếc rương y phục bằng da sơn đỏ.
Trên bức vách trắng và trên sàn nhà lát đá đều trống trơn, không một vật
trang trí. Địch Nhân Kiệt thăm dò, “Phu nhân, căn buồng dường như hơi ít
gia cụ. Hẳn khi lão gia còn sống, đồ đạc phải nhiều hơn mới phải? Bàn
trang điểm, vài bức thư họa trên vách chẳng hạn…”
“Phu quân dân nữ là một người sống thanh cảnh,” Kha phu nhân lạnh lùng
ngắt lời. “Mặc dù là một cự phú, song phu quân lại không thích xa hoa mà
chỉ thích đơn giản, mộc mạc.”
Địch Nhân Kiệt cúi đầu nói, “Điều đó cho thấy nhân cách quả là cao quý
của Kha lão gia.” Rồi ông nhìn sang mấy chiếc rương y phục, “Kha phu
nhân, chỉ có ba chiếc rương y phục ở đây, có đánh dấu ‘Xuân’, ‘Đông’ và
‘Thu’. Vậy còn chiếc rương chứa y phục mùa hạ đâu?”
“Ta đã cho người mang đi sửa rồi,” Kha phu nhân mệt mỏi đáp.
“Ra vậy. Ta thường thấy một bộ bốn rương y phục, nay thiếu mất một nên
mới thuận miệng hỏi mà thôi.” Địch Nhân Kiệt nói tiếp, “Kha phu nhân,
giờ phiền phu nhân kể lại những gì diễn ra vào buổi tối định mệnh ấy. Ta đã
đọc kí lục liên quan đến vụ án ở công đường, nhưng…”
Kha phu nhân đột nhiên lấy quạt đập thứ gì đó, rồi quay sang mắng đứa a
hoàn, “Đã bảo ngươi bao nhiêu lần là ta không muốn thấy lũ côn trùng kinh
tởm này trong nhà rồi? Nhanh, đập nó đi… Nó bay ra kia rồi kìa!”
Địch Nhân Kiệt vô cùng sửng sốt.
Lão Phan nhẹ nhàng nói, “Phu nhân, chỉ là một hai con ruồi mà thôi, hay để
ta…”
Kha phu nhân không nghe thấy lời viên sư gia nói, chăm chú dõi theo đứa a
hoàn đang nỗ lực đập ruồi bằng chiếc khăn tay, liên tục nói, “Sao ngươi
không đập nó đi. Kia kìa… nhanh! Nhanh!”