lý/sự thật của TỒN TẠI và HƯ VÔ; MỤC ĐÍCH LUẬN là chân lý/sự thật
của CƠ GIỚI LUẬN và HÓA HỌC LUẬN. Cách sử dụng này bao hàm
mấy ý tưởng sau đây:
(a) Nếu cái gì đó là chân lý/sự thật của cái đi trước của nó, thì, dù nó
chứa đựng những mâu thuẫn của riêng nó và sẽ xuất hiện ra sau này, nhưng
nó giải quyết và thoát khỏi những mâu thuẫn đã được chứa đựng trong cái
đi trước.
(b) Nó là, hay hiện thân, khái niệm mà cái đi trước của nó đã nỗ lực
thực hiện, nhưng đã không thể hiện thực hóa một cách thích đáng mà
không thay đổi thành một cái gì khác. Tương tự như thế, ta có thể sơ thảo
một bài báo, nhưng không thể thực hiện trọn vẹn các ý định có trong đầu
nếu không mở rộng nó thành một công trình khảo cứu. (Điều này không có
nghĩa rằng công trình khảo cứu, khi đã hoàn tất, là chung quyết và không
cần có thay đổi nào trong lần tái bản).
(c) Chân lý/sự thật của cái đi trước không đơn giản thế chỗ cho nó, mà
chứa đựng hay vượt bỏ những gì là đúng thật ở trong nó. (Công trình khảo
cứu chứa đựng những gì “đúng thật” ở trong bài báo sơ thảo).
6. “Chân lý/sự thật” của một cách nói cho thấy chân lý không đơn giản
là đối lập với sai lầm và thiếu sót. Sai lầm, thiết sót sẽ phát triển thành chân
lý và được vượt bỏ trong chân lý. Tương tự như thế, những thực thể hữu
hạn hay “sai lầm” bên trong vũ trụ không đơn giản là đối lập với cái đúng
thật hay với cái VÔ HẠN, trái lại, được vượt bỏ trong nó. Hölderlin cũng
có cái nhìn tương tự: “Chân lý đúng thật nhất chỉ có thể là cái trong đó sai
lầm cũng trở thành chân lý, bởi chân lý, trong hệ thống toàn bộ của nó,
thiết định cái sai lầm đúng lúc và đúng nơi”. Vì thế, khi Hegel phê phán các
triết gia khác, chẳng hạn, phê phán Spinoza hay Jacobi, ông có xu hướng
cho rằng không phải quan niệm của Spinoza hay Jacobi là sai lầm, trái lại,
quan niệm ấy phát triển thành quan niệm của ông.