Trong KHLG, Hegel lập luận rằng cơ giới luận, hóa học luận và mục
đích luận đều có thể áp dụng cho các lĩnh vực tương thích của chúng.
Nhưng chúng không đơn giản là “ngang bằng nhau”/“dửng dưng” (hai
nghĩa này đều đúng vì gleich gültig là “có giá trị ngang bằng nhau”, nhưng
Hegel chơi chữ từ chữ gleichgültig [DỬNG DƯNG]): mục đích luận là
CHÂN LÝ của cơ giới luận và hóa học luận. Mục đích luận tiền giả định
một môi trường có trật tự theo kiểu cơ giới và hóa học, nhưng theo một
nghĩa cao hơn, cơ giới luận và hóa học luận tiền giả định mục đích luận: vì
các hệ thống mục đích luận là có tính tự-quy-định và tự-giải-thích theo
cách mà các hệ thống cơ giới và hóa học không làm được, vũ trụ phải đạt
đến các hệ thống mục đích luận (các tinh thần) và phải tự mình hình thành
một hệ thống mục đích luận tổng thể bao trùm, trong đó cơ giới luận và hóa
học luận đóng một vai trò cần thiết nhưng phụ thuộc.
Hoàng Phú Phương dịch
Cơ sở, Điều kiện và Giải thích (sự) [Đức: Grund, Bedingung und
Erklärung; Anh: ground, condition and explanation]
Nghĩa gốc của Grund là “cơ sở, đáy, nền”, với ngụ ý rằng nó nâng đỡ
những gì dựa vào nó. Hegel khai thác sự xuất hiện của nó trong những cụm
từ thông thường như: zu Grunde gehen (nghĩa đen là “đi đến đáy” vì thế nói
về một con tàu là “chìm”, và nói về người, v.v. là “bị phá sản, mục rữa”); zu
Grunde richten (“đưa hay hướng đến đáy”, vì thế nghĩa là “làm chìm, hủy
hoại, hủy diệt” một vật hay người); auf den Grund gehen (“đi đến đáy” của
cái gì đó); im Grunde (“kỳ cùng, về nền tảng, nói nghiêm ngặt”); và von
Grund aus (“từ dưới lên, xuyên suốt, triệt để”). Grund cũng có nghĩa là
(một) lý do (cho một hành động, niềm tin hay xúc cảm) và lý do nói chung
(cho việc xuất hiện cái gì đó). Nó thường nằm trong một số từ ghép (chẳng
hạn Grundsatz (nguyên tắc, tiên đề)) và mang lại hai động từ, gründen (auf)
(đặt nền tảng (trên), xác lập, đặt cơ sở cho (cho những ý niệm)) và
begründen (đặt nền tảng, xác lập, củng cố, bản thể hóa, mang lại lý do). Từ