Leibniz cho những giải thích MỤC ĐÍCH LUẬN, nhưng tin rằng điều này
đã vượt khỏi quan niệm về một cơ sở để vươn đến những quan niệm về
KHÁI NIỆM và về MỤC ĐÍCH.
Trong nghiên cứu chính của mình, trong KHLG, Hegel dùng chữ này
với một dãy nghĩa rộng. Trước hết ông liên hệ những gì được đặt cơ sở với
HÌNH THỨC và cơ sở với bản chất, chất liệu và nội dung. Đây là cơ sở
TUYỆT ĐỐI: nó bắt đầu bằng việc là một Grundlage đơn thuần, tức một
“lớp đáy hay thể nền, một cơ sở, một nền tảng”, vốn không đòi hỏi hay quy
định bất kỳ loại hình thức hay siêu-cấu-trúc đặc thù nào; nhưng nó kết thúc
bằng cách sở đắc nội dung của chính mình, sao cho nó là cơ sở được quy
định hay cơ sở nhất định, tức cơ sở của một (loại) hiện tượng đặc thù.
Nếu cơ sở chiếm được nội dung vốn phản ánh đầy đủ nội dung của
hiện tượng mà nó đặt cơ sở, nó là một cơ sở “hình thức” và nó giải thích
đầy đủ cho hiện tượng ấy. Nhưng một sự giải thích như thế (Erklärung -
cũng là “ĐỊNH NGHĨA”), theo Hegel, là trùng phức hay lặp thừa
(tautologisch/Anh: tautologous): nó giải thích lý do thuốc phiện làm cho
người ta ngủ mê là do khả năng gây mê của nó, nghĩa là, nó chỉ đơn giản
mô tả lại hiện tượng mà nó cần giải thích. Trong HTHTT, cũng như trong
KHLG, Hegel đã lập luận rằng những giải thích về các hiện tượng dựa vào
một lực hút chẳng hạn là trùng phức và cho thấy việc Ý THỨC “tự độc
thoại với chính mình”. Một cơ sở như thế không những đặt cơ sở cho hiện
tượng, mà còn tự đặt cơ sở cho chính mình: nội dung của cơ sở hoàn toàn
được rút ra từ nội dung của hiện tượng, và được đặt cơ sở nhận thức luận
trong nội dung của hiện tượng.
Ở giai đoạn kế tiếp, tức giai đoạn của “cơ sở hiện thực”, thì cơ sở
khác về nội dung với hiện tượng. Ở đây Hegel xem xét hai loại trường hợp.
Thứ nhất, có các cơ sở khoa học, chẳng hạn lực hấp dẫn (và các cơ sở thần
học, chẳng hạn, Thượng Đế), khác về nội dung với mọi hiện tượng đặc thù
nhờ vào tính vô cùng đa dạng của các hiện tượng mà nó được cho là đã đặt