khác, và chứa đựng hàng loạt những quy phạm và định chế hướng dẫn hành
động của tôi, và hành động của tôi giúp bảo tồn hơn là thay đổi chúng -
giống như việc tôi sử dụng một ngôn ngữ nói chung là để bảo tồn nó và chỉ
thay đổi nó một cách có mức độ và ở ngoại vi. Theo cách nhìn của Hegel,
việc những người khác cùng chia sẻ một môi trường ấy, cũng như thừa
nhận, diễn giải và đáp ứng các hành động của tôi cũng là một đặc điểm bản
chất của hành động (trong triết học Đức sau Kant nói chung, vấn đề “người
khác” được xem xét theo chủ đề của triết học luân lý hơn là triết học lý
thuyết). Do đó, ý niệm TUYỆT ĐỐI được xem như là “sự đồng nhất của
những ý niệm lý thuyết và thực hành, nghĩa là sự đồng nhất của các ý niệm
về “cái chân” hay cái đúng thật (nhận thức) và “cái thiện” (hoạt động luân
lý), vốn đi trước ý niệm tuyệt đối trong Khoa học Lô-gíc.
Chính vì lý do đó (và cũng bởi hệ thống của Hegel là có tính lịch sử và
hồi cố), Kierkegaard cho rằng HỆ THỐNG của Hegel loại bỏ một sự
nghiên cứu đích thực về hành động, nhất là về những hành động đòi hỏi
một sự quyết định không được quy định từ trước và có thể xung đột với
những quy phạm và thực hành đã được chấp nhận rộng rãi: “hầu hết những
nhà hệ thống hóa đều giống như một kẻ xây một tòa lâu đài vĩ đại, nhưng
lại sinh sống trong một căn lều ở bên cạnh”. Hegel có thể tiếp thu những
lựa chọn có tính ly khai với trật tự hiện tồn nơi các hình tượng nhân vật như
Antigone và những việc làm có tính cách mạng của những cá nhân mang
tầm vóc “lịch sử thế giới” như là Caesar, Alexander Đại đế và Napoleon,
bởi họ đại diện một phương diện trong hệ thống giá trị của thời đại họ.
Nhưng Hegel lại ít quan tâm đến việc tiếp thu những hành vi hoàn toàn độc
đáo và không-lý-tính của một đức tin hay của một lối sống, như trong suy
nghĩ của Kierkegaard. Theo cách nhìn của Hegel, một tác nhân hợp lý tính
thì phải tương ứng với những quy phạm và định chế của xã hội mình đang
sống cũng giống như một người nhận thức hợp lý tính thì phải phục tùng
đối tượng của nhận thức.
Bùi Văn Nam Sơn dịch