(3) Nghĩa nhận thức luận: sự vật là hoàn toàn khả niệm và có thể nhận
thức được;
(4) Nghĩa đánh giá: sự vật là hợp lý tính và tương ứng với những
thước đo hợp lý tính.
(Các nhà diễn giải về triết học Hegel thường nhấn mạnh các phương
diện khác nhau của học thuyết này, nhưng Hegel có tất cả chúng cùng một
lúc trong đầu). Ngụ ý của học thuyết này đối với việc nghiên cứu chính trị
và lịch sử là ở chỗ: không nên phê phán thực trạng hiện tại hay quá khứ hay
khuyến nghị những thay đổi, mà chỉ đơn thuần nỗ lực tìm hiểu chúng và
phát hiện tính lý tính của chúng, nghĩa là, cả tính khả niệm (tính có thể hiểu
được) và sự biện minh tối hậu cho chúng. Những “ý tưởng” và những đề
nghị của ta không tránh khỏi mang tính hời hợt khi so sánh với những “ý
niệm” vốn đã khắc in trong bản tính của sự vật. Thái độ này xuất hiện lần
đầu tiên trong HPĐ: “Nếu ta xem những gì đang là [tức đang hiện hữu]
đúng như là nó phải là, rằng nó không phải là tùy tiện hay ngẫu nhiên, thì ta
cũng thấy rằng nó phải là như nó đang là”.
Học thuyết này đã bị các nhà phê phán Hegel đả kích mạnh mẽ và
được hiểu như là nỗ lực ngăn cấm sự phê phán hay cải cách đối với bất kỳ
thực tiễn, định chế hay nhà cai trị nào. (Nếu học thuyết này áp dụng cho
bất kỳ điều gì đang xảy ra thì tự nó cũng làm cho mình mất tác dụng, trừ
khi bản thân Hegel rút lại việc phê phán những ai đang phê phán hiện trạng
và không được đề nghị rằng họ nên ngưng việc làm ấy!). Vì thế, trong ấn
bản lần 2 của BKT (1827), ông nhấn mạnh rằng ông không hề xem bất cứ
điều gì cũng là hiện thực, và rằng một số sự vật đang hiện hữu (cái bất tất,
các ý tưởng tự phát, sai lầm, cái ác, và những gì chỉ đơn thuần có sự hiện
hữu “cằn cỗi và phù du”) chỉ là VẺ NGOÀI (Erscheinung/Anh:
appearance) hơn là hiện thực (BKT I, §6) (những người ngần ngại không
muốn thấy tính chất thần học trong Hegel có thể diễn giải yêu sách tiếp
theo của Hegel rằng “chỉ có Thượng Đế mới là hiện thực đúng thật” thực ra