giác, trong quan hệ với hội họa, âm nhạc và điêu khắc, báo trước những
phần trong MH, nhưng ít liên quan đến HTHTT.
SHHTN của Kant gồm bốn phần: Chuyển động học (Phoronomie),
Động lực học (Dynamik), Cơ học (Mechanik) và Hiện tượng học
(Phänomenologie). Hiện tượng học xem “sự chuyển động và đứng im chỉ
trong quan hệ với phương cách của biểu tượng hay tình thái (modality), vì
thế như là một hiện tượng của các giác quan bên ngoài”. Vì thế hiện tượng
học của Kant có phạm vi hẹp hơn nhiều so với hiện tượng học của Lambert
và của Hegel. Nhưng, những lá thư Kant gửi cho Lambert cho thấy rằng
ban đầu ông dự tính viết một công trình về hiện tượng học theo nghĩa của
Lambert: “Có vẻ như siêu hình học phải được đi trước bởi một môn khoa
học hoàn toàn khác nhưng đơn thuần mang tính phủ định [tiêu cực]
(Phaenomenologia generalis/Hiện tượng học tổng quát), chính môn này sẽ
quy định giá trị hiệu lực và các giới hạn của các nguyên tắc của cảm năng,
sao cho chúng không làm lẫn lộn các phán đoán về các đối tượng của lý
tính thuần túy” (ngày 2 tháng 9 năm 1770). Trong một lá thư gửi cho Herz,
Kant lên kế hoạch của công trình có nhan đề là Những giới hạn của cảm
năng và lý tính, tiểu mục đầu tiên là Die phaenomenologie überhaupt (Hiện
tượng học nói chung) (ngày 21 tháng 2 năm 1772). Công trình này không
thực hiện được, nhưng PPLTTT chứa đựng các yếu tố của một công việc
hiện tượng học trong phần “Cảm năng học siêu nghiệm” (bàn về hiện tượng
cảm tính (Erscheinung)) và trong phần “Biện chứng pháp siêu nghiệm”
(bàn về “ảo tượng (Schein) siêu nghiệm”). Ở BKT III §415, Hegel cho rằng
Kant trình bày một hiện tượng học về tinh thần, chứ không phải triết học về
tinh thần, nhưng vì lý do hoàn toàn khác mà Kant xét cái Tôi trong quan hệ
với một VẬT TỰ THÂN độc lập.
Trong công trình Wissenschaftslehre (Học thuyết khoa học, 1804),
Fichte cũng gợi ý rằng “Phänomenologie, học thuyết về hiện tượng và ảo
tượng” (Erscheinungs- und Scheinlehre), cần phải được bổ sung cho
Wissenschaftslehre. Wissenschaftslehre cho thấy rằng Ý THỨC là “sự kiện