phần nghiên cứu về “các thái độ của tư tưởng đối với tính khách quan”
(Leibniz, Wolff và những người khác, Kant và Jacobi) ở BKT I §§25-78. Vì
hệ thống tạo thành một vòng tròn, nên BKT III cũng có thể dùng như là sự
Dẫn nhập cho BKT I. Còn nếu xét như là một nghiên cứu về con đường lịch
sử qua đó nhân loại đạt tới tri thức tuyệt đối, thì nó cũng không cần thiết, vì
dù Hegel tin rằng cần có nghiên cứu như thế, thì nhu cầu này đã được BKT
III đáp ứng rồi (với tính cách là sự tường trình về sự phát triển của tinh
thần, tức cũng đã mang tính lịch sử) và bởi các bài giảng lịch sử đi kèm
theo nó. Tuy nhiên, HTHTT là một công trình phong phú, cho dù có hỗn
độn, chứa đựng nhiều chất liệu (về sự xác tín cảm tính, về nhân tướng học
và tướng sọ học, v.v.) không thể tìm thấy trong bất cứ công trình nào khác
của Hegel.
Đinh Hồng Phúc dịch
Hiện tượng, Vẻ ngoài/Ảo tượng/Ánh tượng và Ánh hiện [Đức:
Erscheinung, Schein und Scheinen; Anh: appearance, illusion and
shining]
Tiếng Đức có hai từ cho “appearance” trong tiếng Anh: Schein, với
động từ scheinen, và Erscheinung, với động từ erscheinen.
(1) Scheinen có hai nghĩa khác nhau: (a) “chiếu sáng, ánh hiện”; (b)
“hiện ra, có vẻ như”. Tương ứng với động từ ấy là danh từ Schein có nghĩa:
(a) “ánh sáng, ánh tượng”; (b) “vẻ ngoài, ảo tượng, ảo tưởng”.
(2) Erscheinen và Erscheinung cũng có nghĩa là “xuất hiện ra” và
“hiện tượng”, nhưng, khác với Schein và scheinen, hai từ này cũng được sử
dụng để nói về sự xuất hiện ra, chẳng hạn, việc công bố một quyển sách,
hay việc việc làm cho xuất hiện ra, nhưng không có ngụ ý rằng sự vật là
khác với những gì nó xuất hiện.