Schein và scheinen, với Hegel, vẫn còn có nghĩa thứ hai là “chiếu sáng”
hay “ánh hiện”. (Hai từ này gắn liền với từ PHẢN TƯ (Reflexion) cũng
hàm hồ không kém). Vì thế Hegel nói về bản chất như là sự “ánh hiện” hay
“chiếu sáng” ở bên trong hay vào trong chính mình, như thể bản thân bản
chất và sự khác biệt của nó với Schein được tạo nên bởi một tiến trình
tương tự với tiến trình nhờ đó nó “ánh hiện” hay “chiếu sáng” bản thân ra
bên ngoài: chỉ bằng cách phóng chiếu một ánh tượng (ánh hiện ra bên
ngoài) - chẳng hạn những bong bóng sủi bọt nơi một chất lỏng được đun
sôi - và rồi thu hồi ánh tượng này (ánh hiện vào bên trong), mà bản chất cấu
tạo nên chính mình như là bản chất. Hegel cũng sử dụng quan niệm về cái
Schein nhân đôi này trong sự liên kết với những cặp hạn từ đối ứng khác:
chẳng hạn, trong chừng mực cái phổ biến ánh hiện vào trong chính mình,
nó mới đích thực mang tính phổ biến hay tính loài (ví dụ: “màu sắc” trong
quan hệ với “màu đỏ”, v.v.), trong khi đó, trong chừng mực nó ánh hiện ra
bên ngoài, nó trở thành riêng biệt hay đặc thù tương phản với “cái khác”
mà nó ánh hiện vào (ví dụ: “màu sắc” trong quan hệ với “hình thể” hay
“âm thanh”). (Ở đây Schein có thể hoán đổi với Reflexion). Trong mỹ học,
Hegel, giống như Schiller, tin rằng nghệ thuật làm việc với Schein: ông
phân biệt Schein với Täuschung (ảo tượng, lừa dối), và liên kết nó với từ
gần đồng âm và gần gũi về từ nguyên: schön (“đẹp”).
Trong cách dùng từ của Hegel, Erscheinung và erscheinen khác với
Schein và scheinen ở một số phương diện sau đây:
(1) Erscheinung cũng là sự xuất hiện ra của một bản chất, nhưng bản
chất hoàn toàn bộc lộ chính mình trong Erscheinung và không ẩn giấu điều
gì cả. (Sức mạnh nguyên thủy của tiền tố er- có nghĩa là “từ bên trong”,
dẫn đến ý tưởng về “sự quá độ”, và vì thế dẫn đến ý tưởng về “sự đạt được
hay đạt tới”).
(2) Giống như Schein, Erscheinung là phù du và phụ thuộc, nhưng cái
mà nó phụ thuộc vào thì, ít ra một cách trực tiếp, không phải là một bản