“chất”) bằng cách liên kết chúng về mặt từ nguyên với các từ bản địa (ví
dụ: với Qual: “đau đớn”, “tra tấn”). Nhưng, ông cũng phát triển nhiều thuật
ngữ và khái niệm Triết học khác nữa: ví dụ: Zweck cho “mục đích”, “cứu
cánh”, và Auswicklung cho “sự phát triển” (chỉ mới được thay thế bằng
Entwicklung từ thế kỷ XVIII).
Leibniz xem trọng huyền học giống như Böhme, và khuyến khích xem
huyền học như là nguồn suối cho thuật ngữ Triết học Đức. Böhme cũng
được các nhà lãng mạn đánh giá cao, nhất là Novalis, còn F. Schlegel thì
khẳng định rằng không một ai khác có “sự hình dung bằng phúng dụ và
biểu trưng phong phú đến như thế”. Böhme có ảnh hưởng mạnh mẽ lên
Schelling, và nhất là lên Triết học về Tự nhiên của Schelling.
Dù Leibniz ít viết bằng tiếng Đức, nhưng ông cũng có một số đóng
góp đối với thuật ngữ Triết học Đức. Một thuật ngữ còn sống mạnh đến
ngày nay là cách sử dụng từ Urteil (“phán đoán”) theo nghĩa lô-gíc học;
trong khi từ khác lại không sống sót được, đó là Selbstand (nghĩa đen:
“đứng vững tự mình”) dịch chữ La-tinh substantia (“bản thể”, ngày nay
trong tiếng Đức là (die) Substanz). Leibniz không có chức vụ trong đại học,
nên ông không giảng dạy. Christian Thomasius (1655-1728), một giảng
viên ở đại học Leipzig, đã gây chấn động vào năm 1687 khi công bố sẽ có
loạt bài giảng bằng tiếng Đức. Rút cục, ông đã bị đẩy ra khỏi Leipzig, một
phần vì ông cương quyết giảng dạy và công bố bằng tiếng Đức, và chuyển
sang Đại học Halle, nơi không phản đối hành động vượt ra khỏi truyền
thống của ông. Trong các tác phẩm được công bố, Thomasius tiếp tục sử
dụng các từ vay mượn cùng với các từ bản địa, và phản đối việc tạo ra
những từ Giéc-manh một cách giả tạo để thay thế cho những từ vay mượn
nhưng đã ổn định
. Vì thế, ông vừa dùng từ Materie vay mượn và từ Stoff
bản địa, cũng như vừa dùng từ Object lẫn Gegenstand.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra cho việc viết Triết học bằng tiếng Đức không
phải chủ yếu ở chỗ thiếu các từ bản địa để sử dụng (hay các từ vay mượn