như cũng đã tạo ra nhiều từ gốc La-tinh, và trở thành tiếng Đức, ví dụ:
genetische Definition, Monist, Monismus, Teleologia, v.v.).
Nhờ sự sáng sủa và đơn giản của văn phong, các tác phẩm của Wolff
trở nên hết sức phổ thông và có ảnh hưởng lên cách sử dụng văn học cũng
như Triết học. Việc dùng từ Begriff trở nên rộng rãi là nhờ sự sáng sủa và
ổn định của nó. Hegel dành ít thời gian cho Wolff với tư cách là triết gia,
nhưng ông thừa nhận trong LSTH rằng chính Wolff là “người đầu tiên làm
cho tư duy trong hình thức của tư duy trở thành tài sản chung”, “đã có đóng
góp bất tử cho sự phát triển của trí tuệ Đức”, và “đã làm cho Triết học trở
thành một khoa học thuộc về nước Đức”.
Một số triết gia trong truyền thống của Leibniz và Wolff đã có những
đóng góp thực chất cho tiếng Đức Triết học: Baumgarten đã cho ta từ
Ästhetik (“cảm năng học, mỹ học”), v.v. Lambert tạo ra chữ
“Phänomenologie” (“Hiện tượng học”); và Tetens tinh lọc bộ từ vựng tâm
lý học, chẳng hạn, phân biệt giữa Empfindung (“cảm giác”/Anh:
“sensation”), như là “bản sao” của đối tượng, với Gefühl (“tình cảm, xúc
cảm”/Anh: “feeling”) như là “sự biến đổi trong chính mình” nhưng có thể
tri giác được. Herder, đầy sáng tạo nhưng vô-kỷ-luật, đã mang lại ý nghĩa
rộng lớn hơn về mặt lịch sử cho từ Kultur, Entwicklung và Fortschritt
(“tiến bộ”/Anh: “progress”); trong khi Jacobi du nhập sự tương phản giữa
mechanisch (“tính cơ giới”) và organisch (“tính hữu cơ”).
Kant (1724-1804) không chỉ quan tâm đến ngôn ngữ nói chung, mà -
nhờ vào mãnh lực, sự sáng sủa và tính chất hệ thống của tư duy của ông -
đã có ảnh hưởng lâu bền lên từ vựng và phong cách Triết học Đức, và,
trong thực tế, đã giúp cho nhiều thuật ngữ từ nay có được ý nghĩa chuẩn
mực
. Khác với Hegel, Kant không dành phần lớn công sức để thách thức
cách sử dụng của Wolff, trái lại, tinh lọc, phát triển và mở rộng nó. Đôi khi,
Kant tự ví mình với nhà hóa học làm công việc phân tích các chất hóa học
và tách biệt những gì đã bị pha trộn, hỗn tạp. Vì thế, ông rút ra những sự