phân biệt giữa các từ, ví dụ, giữa Schein (“ảo tượng”/Anh: “illusion”) và
Erscheinung (“hiện tượng”/Anh: “appearance”) và giữa analytisch -
synthetisch (“phân tích - tổng hợp”) và a priori - a posteriori (“tiên nghiệm
- hậu nghiệm”). Kant thường dùng một từ nước ngoài cùng với từ đối ứng
bản địa, nhưng ông có xu hướng phân biệt ý nghĩa của chúng: ví dụ: giữa
Notio(n) và Begriff, Empirie và Erfahrung, Phaenomenon và Erscheinung.
Ông cũng tư duy hết sức có hệ thống, và trình bày từ vựng của mình trong
những cấu trúc có trật tự như trong bảng các phạm trù. Vào thời Hegel,
nghĩa chuẩn mực của thuật ngữ Triết học thường là nghĩa đã được Kant sử
dụng. [Xem thêm: “Từ điển Triết học Kant”, Howard Caygill, Tập thể dịch
giả, NXB Tri thức, 2014. (N.D)].
NGÔN NGỮ CỦA HEGEL
Sự phát triển của tiếng Đức Triết học trong tay của Wolff và Kant có
thể xem như sự trỗi dậy của Verstand (“giác tính”/Anh: “understanding”)
với sự sáng sủa và chặt chẽ có tính phân tích trong lĩnh vực thuật ngữ.
Người ta rút ra những sự phân biệt và phân giới rõ ràng, chẳng hạn, giữa
“cơ sở lô-gíc” (logischer Grund) và “cơ sở hiện thực” (realer Grund), giữa
cơ sở khách quan và cơ sở chủ quan, v.v. Trong khi đó, ngược lại, các nhà
duy tâm Đức [Fichte, Schelling, Hegel, v.v.] lại đại diện cho phản ứng của
lý tính biện chứng (Vernunft/Anh: “reason”). Trong khi không muốn thay
thế giác tính bằng cảm xúc đơn thuần hay quay trở lại với thời kỳ trước
Wolff, họ làm nhòe đi hay ít ra là phức tạp hóa những sự phân biệt vốn
trước nay được xem là rõ ràng và chính xác. Các chức năng của tư duy,
chẳng hạn Idee (“Ý niệm”/Anh: “idea”), Begriff và lý tính trở thành những
lực tích cực hiện thực, tham gia vào trong thế giới cũng nhiều như tham gia
vào trong tư duy của ta về thế giới. Những cách sử dụng ngôn ngữ trong
đời thường thâm nhập vào trong những cách sử dụng Triết học. Có mối
quan tâm lớn đối với vị trí của một sự vật, một khái niệm hay một từ trong
cái toàn bộ mà nó thuộc về, và luôn nhấn mạnh rằng các từ ngữ và khái