cho những gì có tính tinh thần và siêu hình học. (Hegel phê phán khuynh
hướng này, vì nó vừa làm rối, vừa đồng hóa cấp độ cao với cấp độ thấp.
Nhưng bản thân Hegel cũng không hoàn toàn được miễn nhiễm trước xu
hướng này).
Nhưng, người có ảnh hưởng nhiều nhất và có tinh thần sáng tạo nhất
trong số các nhà duy tâm chính là Hegel. Ông tiến hành một cuộc cải cách
triệt để tiếng Đức Triết học, và tuy không thay thế cho truyền thống Wolff-
Kant, sự cải cách ấy vẫn còn ảnh hưởng mạnh mẽ đến diễn ngôn Triết học,
không chỉ trong tiếng Đức mà còn trong các ngôn ngữ Âu châu khác. Ông
không tiến hành bằng cách tạo ra những từ mới, mà bằng cách khai thác
nguồn lực hiện có trong tiếng Đức, cả trong hình thức bản địa lẫn vay
mượn từ nước ngoài. Trong Lời tựa cho ấn bản II của KHLG, ông cho rằng
tiếng Đức rất phong phú về “những diễn đạt lô-gíc”, về những giới từ, v.v.
và có thể tận dụng chúng cho các mục đích Triết học. (Ví dụ nổi tiếng là an
sich, für sich và an und für sich: “tự mình”, “cho mình”, “tự mình và cho
mình”).
Vì thế, bất kỳ từ nào được Hegel dùng thì hầu như trước hết đều có
cách sử dụng trong diễn ngôn thông thường, và thứ hai, có sự sử dụng, hay
đúng hơn, có một dãy nghĩa và cả lịch sử những sự sử dụng trong các triết
gia tiền bối. Hegel rất thường dùng từ ngữ theo những cách này, chẳng hạn,
dùng an sich một cách không tự giác trong nghĩa thông thường, hay, khi
ông bàn về các triết gia quá khứ, dùng từ theo cách mà triết gia trước đã
dùng. Nhưng, ông thường gán cho từ ngữ một nghĩa tương đối mới mẻ, có
quan hệ, nhưng lại tách biệt với các nghĩa thông thường và các nghĩa Triết
học trước đó. Sau đây là một số đặc điểm trong sự cách tân của Hegel:
Nhiều từ và ngữ đoạn khác nhau thường có nghĩa gần như tương tự
nhau. Vì thế, trong cách dùng thông thường, an sich, für sich và an und für
sich không thực sự khác nhau về ý nghĩa một cách rành mạch hay sáng sủa;
Sittlichkeit (“đạo đức (học)”/Anh: “ethics”) và Moralität (“luân lý”/Anh: