(4) Ta không thể khẳng định rằng nó là màu đỏ hay màu xanh, mà phải
tạm thời gác lại lòng tin.
Về sau, Agrippa bổ sung thêm năm phương thức: (a) Trong triết học
lẫn đời sống bình thường có những cuộc tranh cãi, nhưng không có lý do
nào để ủng hộ ý kiến này hơn ý kiến khác. (b) Một sự chứng thực cho một
ý kiến, đến lượt nó, lại đòi hỏi một sự chứng thực khác, dẫn đến một sự quy
thoái VÔ TẬN. (c) Một đối tượng xuất hiện trong tương quan với chủ thể
và các hoàn cảnh; ta phải tạm gác lại phán đoán về tự thân nó. (d) Các nhà
giáo điều tránh sự quy thoái vô tận bằng cách thừa nhận một giả thuyết
(hay TIỀN GIẢ ĐỊNH). (e) Lập luận của họ thường rơi vào vòng luẩn
quẩn, khi một trong hai học thuyết đòi hỏi sự chứng thực của cái kia
(“phương thức tương hỗ”). (a) và (c) tổng kết mười phương thức ban đầu;
(b), (d) và (e) chống lại thuyết giáo điều triết học, chẳng hạn chống lại lý
thuyết của Aristoteles rằng có những tiên đề TRỰC TIẾP không cần
CHỨNG MINH.
Hegel nghiên cứu kỹ lưỡng thuyết hoài nghi của người Hy Lạp, nhất là
trong bài điểm sách của ông về Schulze trong TCPP [Tập san Phê phán về
Triết học]. Trong bài điểm sách này, cũng như về sau, ông xem thuyết hoài
nghi cổ đại là cao hơn thuyết hoài nghi hiện đại (chẳng hạn của Hume,
Schulze), chủ yếu là bởi vì nó có tính hoài nghi hơn. Cụ thể, trong khi các
nhà hoài nghi hiện đại hoài nghi về triết học và về sự áp dụng TƯ TƯỞNG
vào các hiện tượng cảm tính, thì các nhà hoài nghi cổ đại công kích các
hiện tượng cảm tính cũng như các niềm tin của lương năng thông thường.
Hegel xem họ là đồng minh trong sự công kích của ông chống lại các triết
gia về “lương năng thông thường” như Krug, người viện đến “các sự kiện
(Tatsachen) của Ý THỨC”. Vậy nên ông thích mười phương thức hơn là
năm phương thức của Agrippa, vì mười phương thức chĩa vào lương năng
thông thường, trong khi năm phương thức lại công kích bản thân triết học.
(Có một cuộc tranh luận đáng kể về phạm vi của thuyết hoài nghi cổ đại, về
phải chăng nó, hay các khuynh hướng khác nhau trong nó, chỉ công kích