triết học khác. Câu trả lời của ông cho nỗ lực muốn dùng quan niệm khác
để đối lập lại quan niệm của ông là: “Tôi đã nói về điều đó rồi”. (Chống lại
phương thức (a)).
(ii) Hegel chỉ đơn giản quan sát “bản thân SỰ VIỆC”, tức quan sát các
hình thái khác nhau của ý thức, tư tưởng, v.v., tự phát triển và tự phê phán
mình, không có sự đóng góp nào từ bản thân ông. (Chống lại (c)).
(iii) Tiêu chuẩn của chân lý (đối với nhà hoài nghi là có thể tranh luận
như bất cứ điều gì khác) do đó, là đã được đáp ứng, và áp dụng cho bản
thân nó, bởi bản thân hình thái của ý thức, v.v., chứ không phải bởi Hegel.
(iv) Có các tiền giả định, nhưng được vượt bỏ trong vận động vòng
tròn của HỆ THỐNG. Hệ thống không lập luận trong một vòng tròn về một
thế giới tĩnh tại khác biệt với nó mà dõi theo vận động vòng tròn của bản
thân thế giới. Vậy nên nó bao hàm cả giả thuyết (hypotheseis) lẫn tính vòng
tròn, mà không quy thoái vô tận. (Chống lại phương thức (b), (d), và (e)).
Hegel phân biệt thuyết hoài nghi với sự nghi ngờ (nhất là nơi
Descartes). Danh từ Zweifel (“nghi ngờ”) đến từ chữ zwei (“hai”), và hàm ý
một sự tiếp tục gắn bó với các niềm tin mà ta nghi ngờ và hy vọng vào việc
khôi phục lại niềm tin của ta vào chúng. Ngược lại, nghi ngờ mang tính
hoài nghi [trong Hegel] thật ra là sự tuyệt vọng (Verzweiflung), là sự từ bỏ
trong vô vọng lập trường đã bị nghi ngờ.
Thánh Pháp dịch
Hư vô (sự) [Đức: Nichts (das); Anh: nothing] → Xem: Tồn tại, Hư
vô và Trở thành (sự) [Đức: Sein, Nichts und Werden; Anh: being,
nothing and becoming]