sein nghĩa là “sắp làm, sắp sửa làm điều gì đó”). Eckhart sử dụng Begriff
thay cho conceptus hay notio của tiếng La-tinh; và Wolff sử dụng Begriff
theo nghĩa của một “SỰ HÌNH DUNG sự vật trong tư tưởng”, và Kant đã
xác lập nghĩa của Begriff theo hướng ấy: tương phản với “TRỰC QUAN”
(Anschauung), Begriff (“khái niệm”) là một “biểu tượng PHỔ BIẾN
[Vorstellung/Anh: representation] hay một biểu tượng về điều gì có chung
ở nhiều đối tượng” (Lô-gíc I, i §1). Ở Hegel, Begriff thường được phiên
dịch sang tiếng Anh là “Notion”, vì, đối với Hegel, Begriff không phải chỉ
có tính phổ biến, cũng không phải một Vorstellung, cũng không phải biểu
thị về điều gì mà các đối tượng có chung. Nhưng cách phiên dịch sang
tiếng Anh này xóa mờ những sự kết nối của nó với begreifen, cũng như với
sự sử dụng thông thường của Begriff, điều mà Hegel đã không đơn giản
loại bỏ, mà phát triển hay vượt bỏ một cách có phản tư.
Trong các tác phẩm thời kỳ đầu, đặc biệt là trong TTKT [Tinh thần và
số phận của đạo Kitô], Hegel đối lập khái niệm TRỪU TƯỢNG với SỰ
SỐNG và tình yêu, và xem nó là chỉ diễn đạt những đặc tính chung của sự
vật, chứ không diễn đạt được bản chất bên trong của chúng. Nhưng ở thời
kỳ Jena, Hegel đã đi đến chỗ tin rằng triết học phải mang tính khái niệm,
hơn là mang tính trực quan hay xúc cảm. Ông tuyên bố niềm tin này trong
Lời tựa của HTHTT và không bao giờ từ bỏ nó. Niềm tin rằng tư duy khái
niệm phải nắm bắt, hơn là gạt bỏ, sự phong phú của các kinh nghiệm
thường nghiệm, xúc cảm và tôn giáo là động cơ trung tâm cho sự biến đổi
của ông đối với quan điểm thông thường về khái niệm.
Trong KHLG, khái niệm tương phản với dãy thuật ngữ sau đây:
(1) Tương phản với TRỰC QUAN hay cái CẢM TÍNH (das
Sinnliche), và với biểu tượng (Vorstellung): một khái niệm không phải là
một loại biểu tượng, như đối với Kant và Wolff; ngay cả một biểu tượng
thường nghiệm (chẳng hạn như màu đỏ, ngôi nhà hay con người), do ta