điều này hình thành một chuỗi những quan điểm khác nhau: từ quan niệm
cho rằng Khoa học Lô-gíc chỉ đơn giản “tái cấu tạo” và làm sáng tỏ các
khái niệm, sẽ được Hegel sử dụng để tổ chức và làm sáng tỏ nội dung
thường nghiệm (chẳng hạn, M.J. Petry, K. Hartmann), đến quan niệm rằng
ông tin vào việc thế giới “lưu xuất” (to “emanate”) từ khái niệm trong
truyền thống của thuyết Plato-mới. Những sự khác biệt quan điểm này phản
ánh sự hàm hồ và sự phức hợp cố hữu trong tư tưởng của Hegel.
Hoàng Phú Phương dịch
Khoa học Lô-gíc [Đức: Wissenschaft der Logik; Anh: Science of
Logic] (1812-16)
KHLG gồm hai “tập”. Tập thứ nhất, “Lô-gíc học khách quan”, có hai
“quyển”: “Học thuyết về TỒN TẠI” (in năm 1812) và “Học thuyết về BẢN
CHẤT” (1813). Tập thứ hai, “Lô-gíc học chủ quan” gồm “Học thuyết về
KHÁI NIỆM”, được in năm 1816. Năm 1831, Hegel hoàn tất phiên bản có
rất nhiều chỗ chỉnh sửa lại và mở rộng thêm của “Học thuyết về Tồn tại”,
nhưng không có thời gian chỉnh sửa (hai) phần còn lại của Khoa học Lô-
gíc. Lời nói đầu cho ấn bản lần thứ hai đề ngày 7 tháng 11 năm 1831, một
tuần trước khi ông mất (14.11.1831). Ấn bản này được xuất bản vào năm
1832, và tái bản vào năm 1834-5 trong Các tác phẩm di cảo. Chỉ có ấn bản
lần hai của KHLG được dịch sang tiếng Anh mà thôi.
Chủ đề của KHLG không tương ứng với bất cứ môn học truyền thống
nào, mà là một nỗ lực kết hợp các chủ đề khác nhau trước đó vào một cái
toàn bộ duy nhất. Các công trình Lô-gíc học có trước KHLG của Hegel là:
1. Trong Categoriae [“Các phạm trù”], Aristoteles cố gắng lập bản
danh mục và định nghĩa những loại thuộc tính chung nhất có thể áp dụng
cho một thực thể: BẢN THỂ, CHẤT, LƯỢNG, TƯƠNG QUAN, v.v. Plato