đã cố gắng làm công việc tương tự, đặc biệt là trong Sophist, một đối thoại
của Plato được Hegel rất ưa chuộng.
2. Trong De Interpretatione [“Về diễn giải”], Aristoteles xem xét cấu
trúc và các cấu phần của MỆNH ĐỀ hay PHÁN ĐOÁN. Plato đã tổng khảo
sát vấn đề này, đặc biệt là trong Theaetetus và Sophist.
3. Quyển Phân tích pháp I của Aristoteles bàn về bản tính và giá trị
hiệu lực của CÁC SUY LUẬN hay TAM ĐOẠN LUẬN, trong khi Phân
tích pháp II bàn về LUẬN CỨ CHỨNG MINH hay sự chứng minh và về
KHOA HỌC chứng minh. Analutika là chữ [Hy Lạp] của Aristoteles dùng
để chỉ môn Lô-gíc học. Logike (techne) (“(nghệ thuật của) lô-gíc”, bắt
nguồn từ chữ logos, “lời, lý tính”, v.v.) được PHÁI Khắc kỷ sử dụng đầu
tiên.
Những công trình Lô-gíc học này cùng các công trình Lô-gíc học khác
của Aristoteles về sau được gọi là Organon, “bộ công cụ” của tư tưởng
đúng đắn. (Các công trình có nhan đề “Bộ Công cụ mới”, chẳng hạn như
của Bacon và Lambert, là những nỗ lực vượt qua, hay cập nhật,
Aristoteles).
4. Trong Siêu hình học, Aristoteles nỗ lực biện minh LUẬT [loại trừ]
MÂU THUẪN và LUẬT LOẠI TRỪ CÁI THỨ BA [luật bài trung hay
triệt tam]. (Ông gán các luật này cho môn SIÊU HÌNH HỌC hay “triết học
đệ nhất”, vì chúng áp dụng cho mọi thực thể). Vào thời Hegel, “các quy
luật của TƯ DUY” cũng gồm cả luật ĐỒNG NHẤT và (từ Leibniz) nguyên
tắc lý do đầy đủ hay CĂN CỨ.
2, 3, 4, và một phần nào đó 1 tạo nên nội dung của Lô-gíc học “HÌNH
THỨC”, “cổ điển”, hay Lô-gíc học “truyền thống” vào thời Hegel. Cũng
giống như Kant, Hegel cho rằng môn Lô-gíc học này không có sự tiến triển
quan trọng nào kể từ thời Aristoteles. (Quan niệm này đánh giá thấp sự
đóng góp của thời trung cổ và phái khắc kỷ cho Lô-gíc học, cũng như Lô-