Hegel ắt phải thừa nhận (1), mặc dù (1) không dẫn đến kết luận rằng,
về nguyên tắc, một hệ thống là bất khả hay không đáng mong muốn. Ông
minh nhiên bác bỏ (2) trong BKT I, §14. Mối quan tâm đến chân lý và tính
khách quan của ông dẫn ông đến bác bỏ (3), dù ông đã chưa bàn về
Kierkegaard trong nghiên cứu của mình về “Ý THỨC bất hạnh”. Ông nỗ
lực loại trừ các yếu tố cá nhân đã được nhắc đến trong (4); câu trả lời của
ông đối với (các) vấn đề của tri thức hiển nhiên là không thấp kém hơn câu
trả lời của Nietzsche. Tư tưởng của Hegel và cấu trúc của hệ thống của ông
tiến hành bằng con đường của các PHẢN TƯ liên tiếp về trạng thái hiện tại
của trò chơi: không có gì rõ ràng là ông không thể tiếp thu các câu hỏi xuất
hiện trong (5), cho dù ông không làm điều đó một cách minh nhiên. (Các
phản tư của ông về chân lý cũng không ít tính sáng tạo hơn các phản tư của
Nietzsche).
Hegel cũng sử dụng System theo nghĩa không mang tính kỹ thuật,
chẳng hạn như với hệ thống thuế, và với “hệ thống các nhu cầu” của XÃ
HỘI DÂN SỰ” (THPQ, §§189 và tiếp; BKT III, §§524 và tiếp).
Nguyễn Trúc Phương dịch
Kitô giáo [Đức: Christentum; Anh: Christianity] → Xem: Thượng
Đế/Thiên Chúa và Kitô giáo [Đức: Gott und Christentum; Anh: God
and Christianity]
Kinh nghiệm và Thường nghiệm (cái) [Đức: Erfahrung und das
Empirische; Anh: experience and the empirical]
Hegel sử dụng chữ gốc Hy Lạp Empirie (kinh nghiệm), empirisch
(thường nghiệm) và Empirismus (thuyết duy nghiệm), nhưng ông cũng
dùng những chữ Đức bản địa là (động từ) erfahren và (danh từ) Erfahrung
để chỉ kinh nghiệm. (Động từ erleben và danh từ Erlebnis (Anh: “lived
experience”) (trải nghiệm/kinh nghiệm sống) chỉ trở nên quan trọng trong