ĐỐI TƯỢNG và quan niệm của ý thức về đối tượng ấy và sự biến đổi quan
niệm ấy thành đối tượng kế tiếp của mình.
Ý tưởng rằng kinh nghiệm, về bản chất, là kinh nghiệm riêng của bản
thân mỗi người vẫn dai dẳng trong những nghiên cứu về sau của Hegel về
kinh nghiệm thường nghiệm, nhất là trong những mục Dẫn nhập của BKT I.
Về công lao của thuyết duy nghiệm, ông cho rằng, ngoài việc nó mang lại
những luận chứng về nhận thức để bảo vệ cho những yêu sách của mình, nó
còn có công ở chỗ đã nhấn mạnh rằng con người chỉ nên chấp nhận những
gì mà họ tự thân trải nghiệm mà thôi. Điều này dẫn ông đến chỗ đồng hóa,
chẳng hạn, NHẬN THỨC trực tiếp, hay NIỀM TIN của F. H. Jacobi vào
những thực thể như THƯỢNG ĐẾ với thuyết duy nghiệm của Hume và của
các nhà khoa học tự nhiên. Nhưng, còn một nguồn suối nữa cho sự đồng
hóa này, đó là sự bất định của mối quan hệ giữa kinh nghiệm và tư tưởng.
Sự bất định này đôi khi xuất hiện nơi Kant, nhưng rõ nhất là nơi Hume, ở
chỗ kinh nghiệm, một cách mơ hồ nước đôi, vừa là kinh nghiệm về các ấn
tượng, không đòi hỏi tiến trình khái niệm hay tưởng tượng nào cho sự lĩnh
hội những ấn tượng ấy, vừa là kinh nghiệm về các đối tượng, vốn là một
kiến tạo khái niệm và tưởng tượng. (Hume cũng nước đôi làm ta không biết
kinh nghiệm ông nói đến là kinh nghiệm riêng của mỗi người hay là kinh
nghiệm của con người nói chung: không phải là kinh nghiệm cá nhân của
tôi, mà là của nhân loại nói chung cho [ta biết] rằng, chẳng hạn, người chết
không thể sống lại). Vì thế, kinh nghiệm nơi Hegel có ba nghĩa rộng:
(1) Kinh nghiệm, nhất là trong những nghiên cứu của Hume, là chất
liệu thô, chưa được tư tưởng xử lý. (Hegel tin rằng ông đã phản bác được
thuyết duy nghiệm viện đến kinh nghiệm theo nghĩa này trong nghiên cứu
của ông về sự xác tín cảm tính trong HTHTT, I).
(2) Chính chất liệu cảm tính là cái đã trải qua những tiến trình nào đó
trong việc xử lý về mặt khái niệm. Hegel thường quan niệm rằng kinh
nghiệm theo nghĩa này vượt khỏi TRI GIÁC ở chỗ nó chứa đựng các QUY